Cao Hữu Đính
LỜI GIỚI THIỆU
Na Tiên Tỳ Kheo Kinh là một bộ kinh phản ảnh đầy đủ những đường nét chính của Giáo lý Nguyên Thủy. Nhưng nếu chỉ có thế thôi thì kinh này chỉ là một bản trùng tuyên vô vị, không đáng được có một địa vị Tam Tạng Thánh Giáo.
Đặc sắc của kinh này dĩ nhiên không phải ở chỗ trùng tuyên vô bổ ấy. Đặc tánh của nó là chính ở những ví dụ rất khế lý và khế cơ mà Ngài Na Tiên đã khéo sử dụngđể làm sáng tỏ các chủ điểm giáo lý căn bản của Phật Giáo Nguyên Thủy. Các ví dụ rất linh động ấy là hoàn toàn do ngài sáng chế để đóng góp vào chánh pháp và thúc đẩy bánh xe Chánh Pháp chuyển mau thêm.
Kinh này xuất hiện vào thời kỳ nào? Căn cứ vào tiểu sử vua Di Lan Đà, người mà Na Tiên đã đối thoại và trực tiếp giáo hóa, thì Na Tiên sống vào tiền bán thế kỷ II trước Tây lịch. Cuộc đối thoại về giáo lýgiữa Thầy (Na Tiên) và trò (Di Lan Đà), nếu xét sâu vào nội dung thì thấy quả thật là thú vị và hấp dẫn. Vì vậy, nội dung đối thoại nầy bấy giờ được truyền tụng, được các giới Phật Tử tôn thờ gần ngang hàngvới các kinh do kim khẩu Phật nói ra. Cũng nên biết rằng, đặc biệt với Phật Giáo Miến Điện, kinh này được nhiếp thâu vào Tiểu Bộ Kinh tức bộ thứ năm trong Ngũ Bộ Kinh của Giáo điển Nguyên Thủy. Vậy niên đại xuất hiện của kinh nầy, sớm nhất là vào khoảng thế kỷ I trước Tây lịch. Và nơi chốn xuất hiện lần đầu tiên hẳn phải là miền Tây Bắc Ấn Độ, trên lưu vực Ngũ Hà, nơi đã xảy ra cuộc đối thoại ấy.
Vì nội dung kinh này là một lợi khí truyền bá Phật giáo rất mạnh, nên không bao lâu sau, lan rất nhanh sang lưu vực sông Hằng rồi từ đấy tràn lan khắp Ấn Độ, cho đến Tích Lan. Do đó mà tuy nội dung vốn một nhưng kỹ thuật kiết tập thì lại mỗi địa phương một khác. Các bản kiết tập tại lưu vực sông Hằng về sau thành kinh Milindapanhà (Di Lan Đà vấn kinh), được truyền bá sang Tích Lan và các nước Nam Phương Phật giáo. Các bản kiét tập tại Tây Bắc Ấn Độ thì được truyền bá lên Trung Á rồi sang Trung Hoa và Tây Tạng, mệnh danh là Na Tiên Tỳ Kheo Kinh.
Riêng Na Tiên Tỳ Kheo Kinh truyền qua Trung Hoa cũng đã có ba bản dịch khác nhau. Cả ba bản đều mất tên người dịch nên không rõ là đã dịch vào thời đại nào. Chỉ thấy Đại Tạng ghi là "Phụ Đông Tấn Lục". Văn dịch rất xưa và hơi tối nghĩa. Căn cứ vào đó, ta có thể suy đoán rằng các bản dịch nầy có lẽ đã được thực hiện vào khoảng đời Tam Quốc hay đời Tây Tấn, nghĩa là khi Phật Giáo mới du nhập Trung Hoa.
Hiện trong Đại Tạng chỉ thấy có hai bản, ghi số 1670 A va 1670 B. Bản 1670 A phóng theo các bản in đời Tống, đời Nguyên mà hiệu đính lại. Bản 1067 B căn cứ vào bản in đời Minh nhưng cũng có đối chiếu với hai bản đời Tống và đời Nguyên mà hiệu đính. tuy đã có hiệu đính rồi mà cả hai bản vẫn còn tối nghĩa.
Nay nhân đạo hữu Cao Hữu Đính phụ trách dạy kinh này tại Phật Học Viện Nha Trang, đạo hữu bèn gia công sưu khảo nghiên cứu, nhằm mục đích làm sáng tỏ thêm nghĩa kinh. Ông căn cứ vào cả hai bản nhất là bản 1670 B rồi tham khảo với Kinh Milindapanhà của Phật giáo Nam Phương và bản dịch Pháp văn kinh này, soạn thành bài học dạy cho Học Tăng ở Phật Học Viện, Trung Phần tại Nha Trang do tôi điều khiển.
Xét thấy phần đầu, tức duyên khởi của kinh Milindapanhà và của Na Tiên Tỳ Kheo Kinh, hai bên không giống nhau nên đạo hữu đã cho lướt qua, đợi tham cứu sau. Thay vào đó, ông viết một "Lời Nói Đầu" ghi lại tiểu sử vua Di Lan Đà và ngài Na Tiên, cùng là bối cảnh lịch sử thời bấy giờ. Nội dung đối thoại thì giữ lại trọn vẹn và gắng diễn dịch thế nào trung thành với ý kinh. Trong trường hợp gặp những danh từ mà nay đã biến nghĩa, đạo hữu đã tùy nghi châm chế cải đổi chút đỉnh, để độc giả dễ dàng lãnh hội ý chính.
Đọc hết loại bài của đạo hữu biên soạn, tôi lấy làm vừa ý, nên vội cho xuất bản, hầu mong cung cấpmón ăn giáo lý cần thiết cho Phật tử bốn phương.
Vậy, xin có mấy lời giới thiệu với chư Phật tử và thiện hữu tri thức hằng lưu tâm đến tiền đồ Phật giáo nước nhà.
Nay kính,
Nha Trang, Thu Canh Tuất P.L. 2514 (1970)
Giám viện Trung phần
Hòa Thượng Thích Trí Thủ
MỤC LỤC.
Lời giới thiệu.
Lời nói đầu.
Phần I
1. Vô Ngã hay Danh
2. Danh số
3. Cách nói chuyện của hiền giả và vương giả hay điều kiện đối thoại.
4. Di Lan Đà thỉnh Na Tiên vào hoàng cung
5. Cứu cánh đích thực của bậc xuất gia
6. Nguyên nhân luân hồi và phương pháp giải thoát
7. Pháp lành
8. Tương quan giữa thân trước và thân sau.
9. Tự biết hết tái sanh
10. Trí và Minh.
Phần II
11. Đắc đạo rồi có còn đau khổ không?
12. Vui khổ thiện và bất thiện
13. Danh thân tái sanh
14. Đã hỏi rồi không nên hỏi lại
15. Danh và thân tương liên
16. Thời gian
17. Đầu mối của sanh tử
18. Nhân duyên sanh
19. Linh hồn
20. Liên hệ giữa căn và tâm thần
21. Xúc
22. Cảm thọ
23. Giác
24. Sở niệm
25. Nội động
26. Nỗi lòng
27. Muối
28. Duyên nghiệp của tri giác
29. Nguyên nhân bất bình đẳng giữa loài người
30. Phải sớm làm điều lành
Phần III
31. Lửa địa ngục
32. Nước dựa trên không khí
33. Niết Bàn
34. Phật có ra đời
35. Phật là tối thắng
36. Thân cũ không tái sanh
37. Thân mất, việc làm còn
38. Không thể biết quả báo về sau.
39. Niết Bàn ở đâu?
40. Vì sao Sa môn săn sóc cái thân?
41. Tại sao Phật không giống cha mẹ?
42. Chơi chữ
43. Ai truyền giới cho Phật?
44. Giọt nước mắt lành
45. Mê ngộ khác nhau
46. Trí nhớ
47. Mười sáu cách nhớ
48. Phật là Đấng Toàn Giác
49. Nhân ít, quả nhiều
50. Ngừa giặc khi chưa đến
51. Thần thông chẳng quản xa gần
52. Cùng đến một lượt
53. Bảy sự việc tựu thành giác ngộ.
54. Làm việc lành nhỏ được phước lớn.
55. Kẻ trí làm điều dữ ít bị tai vạ hơn người ngu
56. Bay lên trên không
57. Xương dài bốn ngàn dặm
58. Ngừng hơi thở
59. Biển
60. Trí tuệ soi thấu tất cả.
61. Thần hồn, trí và thức
62. Phật làm được việc khó làm
Lời cuối cùng
XEM THÊM
Mi Tiên Vấn Đáp (Milinda Panha), Giới Nghiêm
Kinh Tỳ-Kheo Na-Tiên, Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến
Kinh Tỳ Kheo Na Tiên, Thiện Nhựt
Về niên đại Hán dịch của kinh Na Tiên Tỳ kheo (Đào Nguyên)