MỤC LỤC:
Dẫn nhập
Phần I: Giới thiệu Ngũ uẩn
1. Ðịnh nghĩa và Giải thích về Ngũ uẩn
2. Ðức Phật và những lời dạy của Ngài về nhân sanh quan, vũ trụ qua Ngũ uẩn
3. Quan niệm về Ngũ uẩn theo Kinh Tạng Ðại Thừa
Phần II: Tu tập về Ngũ uẩn - Quán phá Ngũ uẩn
1. Ngũ uẩn vô ngã
2. Ngũ uẩn giai không
Phần III: Ứng dụng sự tu tập Ngũ uẩn trong đời sống hiện tại
1. Y học
2. Môi trường sống
3. Phát triển tâm linh
Phần IV: Nhận định và Kết luận
1. Phật giáo: Cái nhìn trí huệ
2. Vai trò người tu sĩ trong hiện tại
Sách tham khảo
DẪN NHẬP
Con người là gì? Ðó là câu hỏi không đơn giản mà bao đời nay các nhà triết học và khoa học khác nhau ra công tìm lời giải đáp và đã gây ra không ít sự tranh cãi vì bất đồng quan điểm. Sách triết học Mác-Lê nin có ghi: ’Câu trả lời chỉ là chơn thật khi con người có khả năng bước ra khỏi bản thân mình với tư cách là hệ thống trong quá trình vận động sanh thành’.[1]
Dưới con mắt của bậc Giác ngộ, con người chỉ là một hiện hữu do duyên sanh, một quá trình trưởng thành mà không có thực thể bản chất thường hằng. Từ cái nhìn ấy, giáo lý ngũ uẩn, vấn đề lớn đối với con người, là nhân sanh quan, vũ trụ quan Phật giáo đã được Ðức Phật Thích Ca, bậc Ðại trí huệ, thuyết giảng tại Ấn Ðộ cách đây hơn 2500 năm về trước, cho đến nay nó vẫn mang một giá trị vô cùng thiết thực cho con người và cuộc đời:
‘Ở đây, này các Tỳ kheo vô văn phàm phu thấy rằng’ Thân này là của tôi; Tôi là thân này; Thân này là tự ngã của tôi.’ Thân của kẻ ấy bị biến hoại, bị đổi khác. Khi thân này bị biến hoại, đổi khác, kẻ ấy khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não ... Cũng thế đối với thọ, tưởng, hành, thức...
Này các Tỳ kheo, và như thế nào là không chấp thủ và không ưu não? Ở đây này các vị tỳ kheo, vị đa văn thánh đệ tử thấy rằng: ‘Thân này không phải là của tôi; Tôi không phải là thân này; Thân này không phải là tự ngã của tôi.’ Thân này của vị ấy bị biến hoại và đổi khác. Nhưng dù cho thân này bị biến hoại, đổi khác, vị Thánh ấy không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não ... Cũng thế đối với thọ, tưởng, hành, thức...’ [2]
Theo Ðức Phật, con người chỉ là năm thủ uẩn trôi chảy mãi và mục đích giáo dục của Ngài là chỉ cho con người thấy rõ khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự chấm dứt khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau từ thân năm uẩn ấy. Như thế qua ngũ uẩn, Ðức Phật không chỉ giới thiệu con người mà còn đưa ra con đường đúng đắn về mục đích con người đeo đuổi và bằng mọi giá phải đạt được, đó là hạnh phúc. Có hạnh phúc chăng khi con người bỏ quên sự phát triển tâm linh và đạo đức, chạy theo trào lưu phát triển văn minh, vật chất, chạy theo dục vọng, thỏa mãn tham ái, chấp thủ cá nhân... để rồi gây ra bao cuộc chiến tranh, khủng hoảng xã hội, đạo đức và môi sinh?
Vậy hạnh phúc chân thật là gì?
Ðức Phật dạy:
‘Mình là chủ nhân của chính mình, không ai khác là chủ nhân của mình. Người khéo tự chế ngự mình, sẽ thấy được vị chủ nhân khó tìm thấy.’ (Pháp cú 160)
‘Người trí huệ giữ gìn tâm mình, vì cái tâm có nhận thức, rất tế nhị, nó chạy theo các dục. Cái tâm được khéo giữ gìn, đem lại an lạc, hạnh phúc.’ (Pháp cú 36)
Con người chính nó là con người phải hiểu sự thật của chính mình và biết làm thế nào để đạt hạnh phúc trong hiện tại và tại đây.
Với nhận thức rằng, chỉ khi thấy rõ được chính mình, hiểu được cơ cấu của thân tâm mình, con ngưòi mới có thể tìm được ‘Hạnh phúc chân thật’ người viết đã chọn đề tài này. Mong rằng qua tập luận văn nhỏ bé này, người đọc sẽ phần nào mở được cái nhìn mới về con người và vạn vật xung quanh, qua đó tìm được lối sống thích hợp đem đến an lạc cho thân tâm.
Vì giáo lý Ngũ uẩn rất rộng, bao gồm nhân sanh quan, vũ trụ quan và rất nhiều sự tương quan của nó, nên ở đây, người viết chỉ đề cập một số vấn đề nhằm nêu bật ý nghĩa ‘Năm uẩn là con người và thế giới’ hay ‘Con người và thế giới là một’. Mục đích nhắc con người nhớ rằng: Con người không là một thực thể thường hằng bất biến và con người không thể tách rời khỏi xã hội môi sinh. Từ đó, mở ra một hướng mới có thể giải quyết các khủng hoảng, bất an trong cuộc sống.
Ý nghĩa trên sẽ được trình bày từ cái nhìn nhất quán của Phật giáo, qua một số Kinh, Luận thuộc tạng Nikãya và kinh tạng Ðại thừa như:
- Tương Ưng Bộ Kinh III (HT. Thích Minh Châu dịch).
- Bát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải (HT. Thích Thanh Từ).
- Tiểu Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận (bản dịch của HT. Thích Quảng Ðộ)
- Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận (bản dịch của HT. Thích Quảng Ðộ)
- Phật Học Khái Luận (TT. Thích Chơn Thiện)
- Luận án tiến sĩ ‘Lý Thuyết Nhân Tính Qua Kinh Tạng Pãli’ (TT. Thích Chơn Thiện)
Kết hợp với việc sưu tầm tài liệu qua thơ văn, sách báo...
Trên cơ sở đó, người viết chia đề tài thành những phần có hình thức cụ thể như sau:
Phần Dẫn Nhập được xem như Lời Nói Ðầu.
Phần I: Giới thiệu Ngũ uẩn
1. Ðịnh nghĩa và Giải thích về Ngũ uẩn
2. Ðức Phật và những lời dạy của Ngài về nhân sanh quan, vũ trụ qua Ngũ uẩn
3. Quan niệm về Ngũ uẩn theo Kinh Tạng Ðại Thừa
Phần II: Tu tập về Ngũ uẩn - Quán phá Ngũ uẩn
1. Ngũ uẩn vô ngã
2. Ngũ uẩn giai không
Phần III: Ứng dụng sự tu tập Ngũ uẩn trong đời sống hiện tại
1. Y học
2. Môi trường sống
3. Phát triển tâm linh
Phần IV: Nhận định và Kết luận
1. Phật giáo: Cái nhìn trí huệ
2. Vai trò người tu sĩ trong hiện tại
Trước khi đi vào nội dung đề tài, con xin thành kính tri ân sâu sắc HT. Thích Minh Châu, Hiệu Trưởng trường CCPHVN, cùng toàn thể Ban Giám Hiệu, Văn phòng trường đã tạo điều kiện dễ dàng cho con học tập suốt 4 năm qua. Xin được tri ân Chư Tôn túc, các vị Giáo sư đã truyền trao kiến thức cho con trong suốt thời gian con theo học tại trường. Con kính niệm ân TT. Thích Trí Quảng, giảng sư tiến sĩ Phật học, giáo sư hướng dẫn đã tận tâm chỉ dạy trong suốt quá trình con làm luận văn. Kính niệm ân TT. Thích Chơn Thiện, giảng sư tiến sĩ Phật học, đã chỉ dạy những thâm ý khi con thực hiện đề tài này.
Con cũng xin được ghi lại đây, lòng thành kính tri ân Bổn sư Ni Trưởng thượng Như hạ Thanh cùng quý Ni sư, quý sư cô chùa Huê Lâm đã khích lệ tinh thần tu học của con trong suốt thời gian qua. Xin được gởi lòng biết ơn đến quý Sư cô thiền viện Viên Chiếu, cùng thân phụ, thân mẫu đã góp ý, giúp cho những tư liệu, những kiến thức quý giá khi con thực hiện đề tài tự chọn.
Cuối cùng,xin tri ân tất cả quý huynh đệ, tăng ni sinh, và chư vi phật tử đã giúp đỡ con cho hoàn thành luận văn này.
Ðây là quyển luận văn đầu tay, là hoa trái đầu mùa, là thành quả của bốn năm dài học tập. Tuy chưa đủ sức làm viên gạch dựng xây, cũng xin làm hạt cát nhỏ góp phần tô bồi tường vách Phật pháp hầu đền đáp phần nào thâm ân huấn dục. Nếu có điều chi sơ suất, kính mong Chư vị Tôn túc, chư huynh đệ đồng học từ bi niệm thứ và chỉ chánh cho, để bước đi của con ngày càng được vững vàng hơn.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Trường CCPH VN ngày 20-11-1996.
Ni sinh Thích nữ như ngọc
PHẦN I: GIỚI THIỆU VỀ NGŨ UẨN
Sau khi du ngoạn bốn cửa thành, tận mắt chứng kiến sự vô thường: Sanh, Già, Bịnh, Chết của con người, Thái tử Tất Ðạt Ða đã từ bỏ mọi lạc thú thế tục, quyết chí lên đường tìm ánh đạo giải thoát. Sau khi thành đạo, bài pháp đầu tiên Thế Tôn đem đến cho loài người là bốn chân lý trong cuộc sống con người. Như vậy nguyên nhân chính làm Thế Tôn xa lìa thế tuc và lưu nhập lại thế gian là con người. Và chúng ta dễ dàng tìm thấy bàng bạc trong kinh điển, Phật đều lấy con người làm trung tâm thuyết minh giáo lý. Ðiều khác biệt với những tôn giáo duy tậm, duy thần xem con ngưòi là sản phẩm trong một chiều buồn củaThượng Ðế tối linh, hoặc như duy vật cho con người là kết quả của sự tiến hóa từ loài vượn người. ÐứcPhật thì thuyết con người là do duyên sanh, hiện thân của con nguời là ngũ uẩn và môi trường của con người va chạm là thập nhị xứ, thập bát giới, Tứ Ðế...
Ðiều quan trọng nhất khiến Phật giáo trở thành một yếu tố rất cần thiết, rất phù hợp và không thể thiếu đối với con người từ xưa đến nay là toàn bộ giáo lý Phật giáo chỉ nhằm vào mục tiêu duy nhất là chấm dứt khổ đau, đem lại sự hạnh phúc cho chúng sanh. Hạnh phúc ấy không phải trong ảo vọng mà ngay chính bản thân con người. Ðức Phật dạy:’ Này các tỳ kheo, xưa cũng như nay, ta chỉ nói lên sự khổ và sự tiêu diệt khổ mà thôi.’’[3]
Từ bài pháp đâu tiên về bốn chân lý, Ðức Phật giảng ở vườn nai tại Isipatana gần Benares. Diệu đế thứ nhất với danh từ Dukkha đã trình bày quan điểm của Ðức Phật về nhân sanh và vũ trụ với một triết lý sâu sắc hàm chứa những nội dung rộng lớn. Ðức Phật không phủ nhận có hạnh phúc trong sự sống khi Ngài bảo có khổ đau. Theo Ðức Phật, có những hình thái khác nhau về hạnh phúc vật chất lẫn tinh thần như hạnh phúc của đời ẩn sĩ, hạnh phúc của gia đình, của khoái lạc giác quan, hạnh phúc của tâm linh, hay ngay cảnh giới thuần khiết của Thiền do thức thuần tịnh sanh khởi. Nhưng tất cả đều không thường hằng và chúng đều bao gồm trong Dukkha. ‘Cái gì vô thường là Dukkha’.[4]
Thành phần cốt lõi chúng ta cần nắm rõ thuộc khía cạnh triết lý quan trọng nhất của Diệu đế thứ nhất (Dukkha) chính là năm uẩn, chất liệu hình thành nên một ‘thực thể’ là ‘cá thể’ hay ‘cái tôi’ nhận chịu những kết quả do chính nó tạo ra. Ðức Phật dạy ‘Tóm lại năm uẩn trói buộc là Dukkha’. Ở chỗ khác, Ngài định nghĩa rõ ràng ‘Dukkha là gì? Phải nói ràng đấy là năm uẩn’ [5]
Ðức Phật còn dạy:
‘Người nào thấy rõ được Dukkha, cũng thấy luôn nguyên nhân của Dukkha, cũng thấy luôn sự diệt Dukkha, và cũng thấy luôn con đường đưa đến sự diệt Dukha’[6]
Và như thế, giáo lý Ngũ uẩn thực sự đã diễn bày mọi đặc thù của nó qua ‘Vô Ngã tướng kinh’ (Anatta lakkhana sutta). Bài pháp thứ hai, được Ðức Phật tuyên thuyết và Giáo lý ngũ uẩn qua trí huệ viên mãn do Ðức Phật đã mở ra một cái nhìn toàn diện về con người và thế giới, hiển nhiên bẻ gãy 62 kiến chấp của các luật gia ngoại đạo, những chấp trước sai lầm, phiến diện, què quặt do không chánh tri về con người và thế giới.
Qua phần trình bày trên, chúng ta thấy: Từ nỗi khổ đau của kiếp người gắn chặt vào sự hiện diện của con người trên cuộc đời, Ðức Phật đã nói về năm thủ uẩn, chúng ta sẽ hiểu điều này rõ hơn khi có một khái niệm về năm uẩn cấu tạo nên một cái ngã của con người.
Ðịnh nghĩa và giải thích về Ngũ Uẩn:
Theo Phật giáo, con người là một sinh thể duyên sanh bởi hai thành tố DANH và SẮC, hay vật lý và tâm lý gọi là Ngũ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức). Trong ngũ uẩn, Sắc thuộc vật chất, còn Tho, Tưởng, Hành, Thức thuộc về tâm lý.
Uẩn (khandha): Có nghĩa là tích tập, chức nhóm. Ý nói các pháp sắc tâm, lớn nhỏ, trước sau, tích tập mà tạo ra tự thể. Cách dịch cũ là ‘Ấm’ có nghĩa là che lấp. Ý nói các pháp sắc tâm che khuất chân lý [7].
SẮC UẨN: (Rupakkhandha): Thuần túy là vật chất có hai phần:
Nội sắc uẩn: Thân con người, gồm: hình thể, lục phủ ngũ tạng . .
Ngoại sắc uẩn: Gồm những người khác và thế giới vật lý.
Theo ‘Thắng pháp tập yếu luận’ tập 2, (bản dịch của HT Minh Châu, trang 3) Sắc pháp được cấu tạo bởi bốn đại chủng: đất, nước, gió, lửa (mahabhutani) và tứ đại sở tạo sắc (upadaya rupani) là sắc do 4 đại hợp thành. Cái gì cứng là địa đại, ướt là thủy đại, nóng là hỏa đại, động là phong đại.
‘Sắc uẩn bao gồm tất cả thế giới vật thể, thuộc nội tâm cũng như ngoại giới’[8] Ngoài ra còn Vô biểu sắc theo Câu xá luận là sắc không chuyển động nhưng lệ thuộc vào tâm, nương vào 4 đại chủng mà có. Như khi thọ giới, lấy sắc thể thanh tịnh luôn phòng ngừa sự sai quấy của thân, khẩu, ý làm giới thể. Tướng của sắc thể đó không lộ ra ngoài nên gọi là vô biểu (vô biểu sắc gồm cả hai tính: thiện và ác)
THỌ UẨN: (vedana-khandha): là sự thọ nhận, là cảm giác khi chủ thể tiếp xúc với đối tượng. Gồm có:
- Nội thọ: Cảm thọ trong thiền định.
- Ngoại thọ: Cảm thọ khi các căn tiếp xúc các trần (mắt thấy sắc, tai nghe tiếng..)
Câu xá luận nói: ‘Thọ lãnh nạp tùy xúc’ có nghĩa là sự lãnh nạp tùy theo cảnh của xúc .. thọ y nơi xúc mà sanh vậy’[9] Trung Bộ Kinh I Phật dạy thọ có 3 loại: khổ, lạc, bất khổ bất lạc thọ, từ tính chất này Ðại Thừa ngũ uẩn luận chia thọ có 5: khổ, lạc, hỉ, ưu, xả. Tất cả mọi cảm giác vật lý và tâm linh của ta đều bao hàm trong thọ uẩn’ [10] (same as 2)
TƯỞNG UẨN: (sanna-khandha) là những khả năng kinh nghiệm, khả năng hồi tưởng và ký ức về sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Gồm có sắc, thọ, tưởng... thức tưởng. Câu xá luận nói: ‘Tưởng thủ tượng vi thể’, nghĩa là tưởng có công năng đối cảnh rồi chấp giữ các hình tượng sai khác. Thành duy thức luận nói: Tác nghiệp của tưởng là thi thiết các loại ngôn từ và tên gọi để xây dựng các cảnh tướng. ‘Cũng như những cảm giác (thọ), tưởng được phát sanh do sự tiếp xúc giữa 6 căn với ngoại giới. Chính những tri giác này, nhận biết sự vật là vật lý hay tâm linh’ [11]
HÀNH UẨN: (samkhara-khandha): là khả năng tư duy, nghĩ thiện ác bao gồm mọi hoạt động xấu hay tốt của ý chí và những gì được xem là nghiệp (kamma). Theo ‘Thế giới quan Phật giáo’ của TT. Mật Thể thì ‘Hành là sự chuyển biến của nghiệp thức’. Theo một triết gia phương Tây thì ‘Hành là ý chí muốn sống’ Ðức Phật dạy:’ Hỡi các Tỳ kheo chính ý muốn (cetana) Ta gọi là nghiệp. Khi đã muốn, người ta liền thực hành bằng thân, khẩu,ý ’[12] Ðại Thừa ngũ uẩn luận nói ‘Tư là chủ của hành uẩn vì nó dẫn đầu tất cả các pháp’, vì chức năng của tư là hướng ý đi vào phạm vi các hành động. Hành bao gồm sắc tư, thọ tư, . . thức tư, là sự thể hiện, hình thành các pháp hữu vi. Cũng chính là nghiệp thiện, ác dẫn chúng sinh đi thọ thai và luân hồi sanh tử.
THỨC UẨN: (vinnana-khandha) là khả năng ghi nhận sự có mặt của các pháp qua 6 căn, là phản ứng khi có ‘căn’, làm căn bản và ‘cảnh’ làm đối tượng. Theo Phật giáo nguyên thủy chỉ có 6 thức (nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức) và từ ngữ tâm, ý, thức thường được dùng chung. Nhưng đến thời kỳ bộ phái và Ðại thừa Phật giáo có thêm 2 thức nữa là Mạt na và A lại Da. Lúc này nói thức là chỉ cho 6 thức đầu, ý căn chỉ cho Mạt na, còn Tâm chỉ cho A Lại Da mở ra hệ thống Duy Thức học sau này.
Thức uẩn là duyên của 4 ấm kia: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, còn gọi là vọng thức, đưa đến tam giới, lục đạo, sáng tạo mọi sự vật từ thân người đến những hiện tượng vũ trụ, trời đất, không gian là duyên khởi của mọi mê lầm. Thiền sư Khuê Phong nói: ‘Thức như huyễn và mộng mị, chỉ bản tâm là thực có’. Nói đến thức là nói đến huyễn hóa. Thức như trạng thái người mê ngủ mê thấy chiêm bao là thật. Trạng thái vô niệm, thanh tịnh như bầu trời quang đãng, chính là thức thứ chín của chúng sanh (bạch tịnh thức, phần tịnh của A lại da) còn Thức A lại da chính là nguyên nhân đưa đến luân hồi trong ba cõi, sáu đường. Chính trong nghĩa này mà Ðức Phật bảo: ‘Tam giới duy tâm’ và cũng trong nghĩa ấy mà Ngài nói: ‘Thức thứ tám là duyên cho tiền ngũ thức, cho hạt giống và hợp thành thế gian. Mặc dù thức này là Bổn Tâm, ta không thể gọi là ‘Bổn tâm’ vì giấc ngủ vô minh còn trùm lên đó.’[13]
Ðức Phật và những lời dạy của Ngài về nhân sanh quan, vũ trụ quan qua ngũ uẩn.
Con người là một hợp thể đa phức ngay chính trong thế giới của con người. Ðó là cái mà Ðức Phật gọi là ‘Căn tánh sai biệt’ Vì thế giáo lý ngũ uẩn cũng tùy theo đó có 3 thời kỳ: theo Nikãya, A tỳ đàm và Kinh Tạng Ðại Thừa với những cách khác nhau thuyết minh về vạn pháp. Như Ngài Phật Âm nói:
‘Trong Kinh, ngũ uẩn được thuyết minh một cách tổng hợp chứ không phân tích chi li. Nhưng trong A-tỳ-đàm thì dùng phương pháp phân biệt Kinh luận và vấn đáp để thuyết minh ngũ uẩn một cách rất chi li, thập nhị xứ, thập bát giới cho đến Tứ đế cũng thế’[14]
Tuy từ Phật giáo Nguyên thủy cho đến Phật giáo Ðại thừa có những tư tưởng khác nhau nhưng vẫn có một cái chung là đều đưa con người đến chỗ tỏ ngộ chân lý như trong các Kinh Phật vẫn thuờng dạy: giáo pháp Phật tuy nhiều nhưng đều cùng một chất liệu giải thoát như nước biển chỉ có một vị mặn. Như thế, ngũ uẩn trong luận văn này sẽ được trình bày theo hệ thống tư tưởng xuyên suốt từ sau Phật thành đạo đến thời kỳ bộ phái, Phật giáo phát triển.
Trong suốt 49 năm giáo hóa,với tâm niệm giải thoát cho muôn loài khỏi khổ đau Ðức Phật đã vân du khắp lưu vực sông Hằng, tuyên thuyết con đường ‘Như thật tri kiến’. Sau khi Ðức Phật nhập diệt, chư thánh đệ tử đứng đầu là Ngài Ca Diếp vì muốn chấn chỉnh Tăng đoàn và giữ gìn cho chánh pháp cửu trụ đã mở ra cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất sau Phật niết bàn khoảng 3 tháng. Theo truyền thống đó, đại hội kiết tập kinh điển lần hai được tổ chức sau Phật niết bàn 100 năm nhưng đều là khẩu truyền. Chư tăng chỉ hợp tụng Pháp tạng mà thôi. Mãi đến Ðại hội kiết tập Kinh điển lần ba (236 năm sau Phật niết bàn) dưới sự hổ trợ của vua A-dục (Asoka) tại thành Hoa thị (Pataliputra) Ngũ bộ Thánh điển được ghi thành văn bản Pãli trên lá bối. Ðó là hệ thống Kinh tạng Nikãya và đến kỳ kiết tập Kinh điển lần thứ tư nửa đầu thế kỷ thứ hai Tây lịch dưới sự bảo trợ của vua Ka-nị-sắc-ca (kaniska) tại Ca-thấp-di-la (kasmir) thì hệ thống Tứ bộ A-hàm (Agama) bằng tiếng Sanskrit xuất hiện.
Trong Tương Ưng bộ kinh III và trong rất nhiều Kinh (Trường A-hàm, Tạp A-hàm... ) Ðức Phật đã giới thiệu về ngũ uẩn và cho chúng ta một nhận thức về nhân sanh quan, vũ trụ quan qua ngũ uẩn như sau:
‘Này các tỳ kheo, thế nào là năm uẩn? Phàm có sắc (thọ, tưởng, hành, thức) gì, quá khứ, hiện tại, vị lai thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần... đây được gọi là năm uẩn’ và:
-‘Này Sona sắc là thường hay vô thường? - Vô thường, bạch Thế Tôn.
-‘Cái gì vô thường là khổ hay lạc?’ - Là khổ, bạch Thế Tôn.
-‘Cái gì vô thường, khổ,chịu sự biến hoại có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là:
-‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?’ Thưa không, bạch Thế Tôn.
-‘Thọ, tưởng, hành, thức. . là thường hay vô thường? - Vô thường, bạch Thế Tôn.
- Do vậy, này Sona, phàm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. . là gì? quá khứ, hiện tại, vị lai thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần tất cả cần phải như thật quán với chánh trí huệ: ‘Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi’[15]
Như thế ngũ uẩn cấu tạo nên con người và vũ trụ, cũng chính là pháp hữu vi không thường hằng, biến hoại và sanh diệt theo duyên. Không nhận ra điều này, con người mãi cho ngũ uẩn là thường hằng, thật có và khổ đau bắt đầu từ đây. Do đó, ngũ uẩn còn được gọi là 5 thủ uẩn.
Nguyên nhân Ðức Phật nói về 5 thủ uẩn là từ nỗi đau khổ của kiếp người gắn liền dính chặt vào sự hiện diện của con người trên cuộc đời và trong cuộc đời ‘Này các tỳ kheo, thế nào là Thánh đế về khổ? Cần phải được nói là 5 thủ uẩn tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Này các tỳ kheo đây gọi là Thánh đế về khổ’[16]
Một lần ở Xá vệ, Thế Tôn đã định nghĩa 5 thủ uẩn như sau:
- ‘Này các Tỳ kheo, phàm có sắc gì quá khứ, hiện tại, vị lai có lậu hoặc, được chấp thủ. Ðây gọi là sắc thủ uẩn (tương tự đối với thọ, tưởng, hành, thức)
Một tỳ kheo bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, chấp thủ hay là 5 thủ uẩn ấy hay chấp thủ ở ngoài 5 thủ uẩn?
- Này Tỳ kheo, chấp thủ ấy không phải là 5 thủ uẩn ấy. . cũng không ngoài 5 thủ uẩn ấy, nhưng chỗ nào có tham dục, chỗ ấy có chấp thủ’[17]
Thiết lập nhân sanh quan trên ngũ uẩn, Ðức Phật xác nhận trở lực chính cho con người là do lầm tưởng ngũ uẩn là hiện thân, là bản thể của chính mình, từ những vọng chấp này, đau khổ phát sanh. Cái mà ta gọi là ‘linh hồn’, ‘cá thể’, hay ‘tôi’ chỉ là tên gọi cho sự nhóm họp của ngũ uẩn, chúng vô thường, hằng biến và vũ trụ luôn ở trong vòng sanh diệt từng giây, từng phút.
‘Hỡi những người Bà-La-Môn, nó giống như một giòng thác đổ, chảy mau, trôi xa, mang theo nó và mọi vật, không có lúc nào, phút nào nó ngừng chảy và cứ tiếp tục chảy mãi, trôi mãi. Hỡi những người ẩn sĩ, đời người cũng thế, giống như một giòng thác’ và Ðức Phật lại dạy ‘Vũ trụ là giòng tương tục vô thường’[18].
Phủ nhận cái thường trụ bất biến, Ðức Phật đã tuyên bố một sự thật về cuộc đời:
‘Này các tỳ kheo, sắc đã được cái vô ngã làm cho sanh khởi, từ đâu là ngã được. Sắc đã được cái vô thường làm cho sanh khởi, từ đâu là thường được. Sắc đã được cái khổ làm cho sanh khởi, từ đâu là lạc được. Tương tự như thế với thọ, tưởng, hành,thức’[19]
Thế thì nguyên nhân tạo thành con người và vạn vật hiện hữu chỉ là một chuỗi nhân duyên trùng trùng tiếp nối, chúng tồn tại và hủy diệt tùy theo chủng loại và điều kiện các duyên phụ trợ khác. Ðức Phật dạy:
‘Này các tỳ kheo, ví như con sông Hằng mang theo nhiều chùm bọt lớn, một người có mắt sáng sẽ nhìn chùm bọt nước ấy, quan sát. . và nhìn tận bản chất nó.. người ấy sẽ thấy chùm bọt nước ấy là rỗng không, sẽ nhìn thấy nó là không có bản chất.. là vô ngã. Làm sao này các tỳ kheo, lại có thể có ngã tính trong chùm bọt nước ấy.. Tương tự như thế với bọt nước trong mưa thu, ảo ảnh trong ngày nắng, mà người ta thấy, được ví với thọ, tưởng, hành, thức, uẩn.
Nếu một người thấy rõ sự thật ấy, người ấy sẽ nhàm chán ngũ uẩn. Do sự từ bỏ ấy, người ấy được giải thoát, đạt đến trí tuệ giải thoát và biết rằng: Mình giải thoát’ [20]
Những lời dạy của Ðức Phật được kiết tập trong Kinh Tạng Pãli như trên đã phần nào giới thiệu sự sanh khởi và sự chấm dứt 5 thủ uẩn. Ðó chính là chân hạnh phúc hay sự chấm dứt khổ đau, và vấn đề cần thiết để chúng ta kiếm tìm sự thật về con người và vũ trụ là thể nhận rõ ràng 5 thủ uẩn và sự vận hành của chúng.
Quan niệm về Ngũ Uẩn theo Kinh Tạng Ðại Thừa
Khởi nguyên tư tưuởng Phật giáo Ðại thừa đã có từ khi Ðức Phật còn tại thế, nhưng đến thời kỳ kiết tập Kinh Ðiển lần thứ ba và thứ tư, khi Kinh Tạng Nikãya và A-hàm được hìnhthành trên văn bản thì tư tưởng Ðại thừa Phật giáo mới dần dần hiện rõ.
Trong Kinh Pháp Ấn của Tạp A Hàm, Ðức Phật dạy:
‘Này các tỳ kheo, nếu có người tu hành nào đi vào trong núi rừng, nơi gốc cây hoặc chỗ vắng vẻ yên tĩnh, đúng như thật mà quan sát như sau: Năm thủ uẩn là khổ, không, vô thường, vô ngã nên sanh tâm nhàm chán.. xa lìa.. rồi trú nơi thấy biết bình đẳng. Này các Tỳ kheo, các uẩn vốn không, chỉ do tâm tạo, khi tâm sanh thì các uẩn sanh, khi tâm diệt thì các uẩn không còn hoạt động gì nữa. Biết đúng như vậy tức là: chánh giải thoát.. xa lìa mọi sự thấy biết vọng tưởng. Ðó là cửa giải thoát KHÔNG.’[21]
Chính trên cơ sở ngũ uẩn là vô thường, vô ngã này của Kinh Tạng Nikãya và A Hàm mà tư tưởng ‘Ngũ uẩn giai không’ trong kinh Bát Nhã (Ðại thừa) được hình thành. Tư tưởng KHÔNG trong kinh Bát Nhã chính là tự tánh của ngũ uẩn cũng như vạn pháp, nó vượt khỏi quan niệm tư duy, lý luận hẹp hòi của con người.
Ðại thừa Phật giáo với tinh thần triển khai sức sống của cội nguồn Nguyên Thủy đã nhìn sự vật hiện hữu với ‘Như thật tri kiến’, thành tựu nhãn quan đối với sự vật ngay từ trong bản thể của nó và từ đó có thể tùy duyên vận dụng giáo lý cho phù hợp với từng thời đại. Ðó là nét đặc thù của hệ thống Kinh điển Ðại thừa, tiêu biểu nhất là kinh Bát Nhã.
Giáo lý Bát Nhã tuy nhiều nhưng không ngoài việc giải thích một chữ KHÔNG. Phần tinh yếu của Kinh Bát Nhã biểu trưng cho trí huệ ‘Ðệ Nhất Nghĩa Ðế’ tức trí huệ quán thấy bản thể KHÔNG của vạn pháp đạt đến chỗ tâm, cảnh tự tại. Chúng ta sẽ đi sâu vào vấn đề này trong phần ‘Ngũ uẩn giai không’ của Bát Nhã Tâm Kinh ở phần sau.
Từ thể Chơn không của Kinh Bát Nhã, kinh Hoa Nghiêm đã dần dần khai triển giáo lý ngũ uẩn về phương diện ‘Diệu hữu’, pháp hiện hữu tùy duyên, tức pháp thân thường trú của con người mà Kinh Lăng già gọi là Như Lai Tạng.
Theo tinh thần Kinh Hoa Nghiêm, ngũ uẩn được gọi là pháp thế gian, khi chuyển được ngũ uẩn hữu lậu (phiền não) thành Ngũ uẩn vô lậu thì gọi là pháp xuất thế gian. Ðức Phật dạy: ‘Những gì là pháp thế gian? Chính là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Những gì là pháp xuất thế gian? Chính là Giới, Ðịnh, Huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến’[22]
Pháp thế gian không sanh không diệt, gọi là Pháp thân thường trú, nên Ngũ uẩn vô lậu cũng được gọi là Ngũ uẩn pháp thân. Pháp thân ấy chính là Chơn tâm. Tâm con người có thể trùm khắp vũ trụ không bị giới hạn bởi bất cứ vật thể gì vì nó vốn không hình tướng. Lập trường Kinh Hoa Nghiêm chú trọng về tâm và duy tâm. Trong hai phần Sắc và Tâm cấu tạo nên con người thì tâm là phần rất quan trọng. Chính tâm này vẽ ra ngũ uẩn và các pháp thế gian. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật dạy:
"Tâm như công họa sư
Họa chủng chủng ngũ uẩn
Nhất thiết thế giới trung
Vô pháp nhi bất tạo".
(Tâm như người thợ vẽ,
vẽ các thứ ngũ uẩn,
các pháp trong thế giới,
không pháp nào chẳng tạo.)
Hay:
"Thân thể tài sản và nhà cửa
Những thứ này chỉ là cái bóng của tâm
Những người ngu không thể hiểu được nó
Bị đẩy vào trong sự tạo lý thuyết và trong tranh luận
Nhưng những gì họ thiết lập chỉ là do tâm tạo
Và ngoài tâm thì không có gì tồn tại"
Trong Kinh Lăng Nghiêm Ðức Phật cũng dạy rằng:
‘Này A-na, ông chưa hiểu cái tướng trần huyễn hóa đó là từ nơi tâm sanh ra, cũng từ nơi tâm mà diệt đi. Cái tướng nó thì huyễn vọng, nhưng tánh nó là Chơn thường .. sanh diệt, khứ lai đều gốc ở nơi Chơn tâm thường trú.’
Như vậy sự sanh diệt của năm uẩn cũng như các pháp đều do tâm còn bản thể năm uẩn vốn không. Biết vậy nên không chấp trước, do đó không bị năm uẩn trói buộc. Ngộ được lý này là thành tựu Pháp thân thường trú. Chính trong vô thường này có cái chơn thường. Tuệ tri được lời Phật dạy, thì thân ngũ uẩn sẽ trở thành một phương tiện thiện xảo cho sự nghiệp tu hành và cải tạo xã hội’
Từ bình diện ‘Diệu Hữu’ của Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Duy Ma và kinh Pháp Hoa đã ứng dụng Pháp thân thường trú đi vào cuộc đời, tùy duyên hóa độ chúng sanh. Hướng dẫn chúng sanh tu tập Giới, Ðịnh, Huệ gạn lọc tâm trí, từng bước cải tạo thân ngũ uẩn hữu lậu thành ngũ uẩn vô lậu hay Ngũ phần pháp thân (Giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến) như hoa sen tỏa hương thơm ngát trong bùn lầy. Từ điểm này, tiến đến chỗ cứu cánh do Ðức Phật khai thị, Pháp thân ấy chính là Phật, là bản thể của năm uẩn và các pháp. Do đó Như Lai nói diệt độ chỉ là diệt thân ngũ uẩn giả hợp nhưng pháp thân Ngài vẫn thường trụ mãi: ‘Nhục thân tuy mất, Pháp thân còn’ . Cũng theo Kinh Pháp Hoa:
‘Khi Ðức Phật chưa thành đạo, Ngài mặc áo nghiệp như chúng sanh. Nhưng sau khi tu tập thành đạo, Ngài đã kết thành ‘Áo Như Lai’ là chiếc y vô hình phủ lên Ngài. Từ đó.. việc làm thánh thiện của Ngài hoàn toàn siêu tuyệt. Các đại đệ tử cảm nhận được Ðức Phật cởi bỏ chuỗi anh lạc, nghĩa là rời bỏ cõi thanh tịnh, mang thân phàm phu, mặc vào áo thô rách là áo ngũ ấm và từ ngũ ấm thân này chuyển thành Phật thân hay mặc áo Như Lai’[23]
‘Áo Như Lai’ là áo nhu hòa nhẫn nhục mà chư Phật Bồ Tát dùng để thuyết pháp độ sanh. Còn hành giả Pháp Hoa nương vào áo Như Lai để tu tập nhằm đạt đến chỗ nhận ra Ðức Phật thường trú và sống với Ðức Phật thường trú. Ðó cũng chính là chất Phật mà mỗi chúng ta đều có.
‘Ngũ uẩn pháp thân’ hay ‘Pháp thân thường trú’ bàng bạc trong các kinh điển Ðại Thừa với những tên gọi khác nhau như: Chơn như, Phật tánh, Bồ Ðề, Niết Bàn. . Tất cả đều là biểu hiện của toàn cõi pháp giới. Vì thế giới này không vật nào không có mối tương quan với nhau, không vật nào không do nhân duyên hòa hợp, đan dệt với nhau mà được tạo thành. Do đó, thấy được Pháp thân có nghĩa là thấy con người và thế giới là một, trong một vật nhỏ nhiệm như hạt bụi, mầm lá xanh.. cũng chứa cả sơn hà đại địa.
Cái nhìn này không có gì xa lạ,vấn đề là ngay trong hiện tại chúng ta cần tu tập để đạt được trạng thái an lạc thường hằng. Nghĩa là phải thường xuyên dùng trí huệ Bát Nhã nhận chân được thực tướng của năm uẩn, quán chiếu sự vận hành chuyển biến của các pháp và những mối tương quan, tương duyên của chúng. Nhờ đó có thể hành động đúng đắn đem đến hòa bình an lạc cho thế giới chúng ta hiện nay.
--------------------------
[1] Triết học Mác-Lê Nin, Bộ Giáo dục đào tạo, NXBGD, 1994, tr.110.
[2] Kindred Saying, vol III, PTS London, 1992, p.18.
[3] Kinh Ví dụ con rắn-Trung bộ I Ðại Tạng Kinh VN Ap2, 1993, tr. 318
[4] Tương ưng bộ III-HT Minh Châu dịch-Ðại Tạng Việt Nam, 1993, tr. 47
[5] Tương ưng bộ III, sách đã dẫn, tr. 46
[6] Tương ưng bộ IV, sách đã dẫn, tr. 635
[7] Từ điển HánViệt, Phân viện nghiên cứu PH-1992, tr. 1804
[8] Con Ðường Thoát Khổ, TKN, Trí Hải dịch, ÐHVH, 1996, tr. 40
[9] Ðại cương Câu Xá Luận, HT Thiện Siêu, VNC PHVN, 1992, tr. 67
[10] Con Ðường Thoát Khổ, sách đã dẩn, tr. 40
[11] Con Ðường Thoát Khổ, sách đã dẫn, tr. 40
[12] Con Ðường Thoát Khổ, sách đã dẫn, tr. 40
[13] Trích tuyển Pháp ngữ của thiền sư Pháp Nhãn, Thuần Bạch dịch, BGN số 69, 1993
[14] Tiểu thừa Phật giáo Tư tưởng luận, HT. Quảng Ðộ dịch, Tu thư ÐHVN, 1969 tr.21
[15] Tương Ưng bộ III, Ðại Tạng Kinh VN Ap3, 1993, tr. 95. 96
[16] Tương Ưng bộ V, 1993, tr. 618
[17] Tương Ưng bộ III, sách đã dẫn, tr. 93
[18] Con Ðường Thoát Khổ, sách đã dẫn, tr. 46
[19] Tương ưng bộ, sách đã dẫn , tr. 49, 51
[20] Lý thuyết nhân tính qua Kinh tạng Pãli, TT Chơn Thiện, Tr 107,108
[21] Tạp A Hàm, Kinh Pháp Ấn số 80, viện NHNT, bản đánh máy
[22] Trí độ luận I, Tuệ Sỹ dịch, tr. 111
[23] Lược giải kinh Pháp Hoa, TT Trí Quảng, THPG TPHCM, 1991, tr. 151
PHẦN II: TU TẬP VỀ NGŨ UẨN - QUÁN PHÁ NGŨ UẨN
Các triết gia phương Tây thường hay bí lối sau khi thuyết minh được hiện tượng giới, vì bản thân họ sau khi trực nhận khổ đau đang xảy ra trước mắt hoặc thầm kín trong tâm hồn, liền tuyên thuyết lên một sự thật cuộc đời thế thôi. Họ luôn tìm sâu trong lý luận, ngôn thuyết chứ không có phương thức nào để thấy được bộ mặt thật đằng sau hiện tượng giới. Héraclite, triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cũng dừng lại ở phạm trù triết lý khi tuyên bố cảm nhận về vô thường bằng câu :’A man can not step twice in the same river’ (Không ai có thể bước hai lần trong một giòng sông).
Ðạo Phật chủ trương sau khi dùng ý niệm chân xác để chấn chỉnh những tư duy sai lạc ban đầu, hành giả phải đi vào thực tập thiền quán để tạo sự định tâm. Từ chỗ định tâm ấy, hành giả nhìn rõ vạn pháp và những chấp thủ sai lầm sẽ vỡ tan. Ðến đây hành giả dấn thân vào đời đem an lạc hạnh phúc cho nhiều người. Chúng sẽ tuần tự đi từ những ý niệm chân xác trong phần tu tập quán phá ngũ uẩn trên cơ sở vô thường, vô ngã của Kinh tạng Nikãya và A hàm tức là nghĩa KHÔNG về mặt hiện tượng giới, đi vào cái KHÔNG bản thể, vượt khỏi ngôn từ lý luận, thuộc Kinh tạng Ðại thừa. Qua đó, nêu bật ý nghĩa Phật giáo Ðại Thừa và Phật giáo Nguyên Thủy là một thể thống nhất, và Phật giáo Ðại thừa là sự phát triển tư tưởng Phật giáo đến mức hoàn thiện trên nền tảng Phật giáo Nguyên Thủy đã đem đến cho đời những bông hoa tròn đầy hương sắc.
- Ngũ Uẩn và Vô Ngã:
Vạn vật xoay vần theo năm tháng, con người sanh ra với hai bàn tay trắng, đến khi nhắm mắt lìa đời đi cũng chỉ trắng tay. Suy rộng ra, vạn vật có sanh rồi diệt biến hoại theo thời gian, thoạt có, thoạt không, không vật nào tồn tại lâu dài, không có một cái ngã nào chắc thật.
"Thảo nào khi mới chôn nhau
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Trắng răng đến bạc mái đầu
Tử sinh khinh cụ làm nao mấy lần."
(Cung Oán Ngâm Khúc - Ôn Như Hầu)
Sự thật là thế. Nhưng con người đau khổ vẫn hoàn khổ đau. Vì có mấy ai nhận ra chân tướng của cuộc đời? Ðức Phật dạy:
‘Ví như này các Tỳ kheo, sông Hằng này vẫn chảy mang theo một đống bọt nước lớn. Có người có mắt nhìn đống bọt nước ấy, chuyên chú, như lý quán sát. Do nhìn chuyên chú như lý quan sát nó, đống bọt ấy hiện ra rõ ràng là trống không, không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỳ kheo lại có lõi cứng trong đống bọt nước ấy được?
Cũng vậy, này các Tỳ kheo, phàm có sắc gì .. thọ gì... tưởng gì ... hành gì .. thức gì, Tỳ kheo nhìn chuyên chú, như lý quan sát, thức ấy hiện ra trống không. . Thấy vậy, này Tỳ kheo, vị đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do nhàm chán vị âý ly tham. Do ly tham vị ấy giải thoát’[1]
Chỉ cần nhìn kỹ nhiều lần từng uẩn, ta sẽ thấy nó do vạn duyên kết hợp. Thí như ngôi nhà do cát, đá, ciment, nhân công .. hợp thành. Gạch ngói đó lại do công thợ, đá, đất, núi non .. tao ra,suy mãi ta sẽ thấy nó là trùng trùng duyên khởi. Con ngưòi cũng thế:
‘Từ vô thỉ đến nay, kẻ nam người nữ thương yêu nhau, đầu tiên là do hình sắc dung mạo. Ðối với các hình sắc đó mà phát sanh ái lạc.. mong cầu được lạc thọ sắc đó. Tho ấy do ý tưởng điên đảo mà sanh ra. Ý tưởng điên đảo lại sanh từ nghiệp phiền não (Hành uẩn) và nghiệp phiền não ấy lấy thức làm chỗ nương dựa. Do đó có thứ lớp từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức.’[2]
Cái gọi là tự ngã của sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay cái ‘Ta’ thực sự là mộng mị, trống rỗng. Nếu có sự cảm nhận hạnh phúc của con người chỉ là cảm thọ thuộc thọ uẩn, mà con người lầm tưởng là mục tiêu lý tưởng cho các ngành xã hội, giáo dục đã làm chết đuối con người trên đường tìm hạnh phúc cho mình:
"Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán
Chết đuối người trên cạn mà chơi
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương"
(Cung oán ngâm khúc - Ôn Như Hầu)
Chính tư duy hữu ngã của con người đã làm sanh khởi bao dục vọng, tham lam, ích kỷ, sân hận.. đã tạo ra nền văn hóa, văn minh nhân loại hiện nay với các khủng hoảng môi sinh, đạo đức xã hội và chiến tranh triền miên. Ðạo Phật không giải phóng con người ra khỏi vỏ bọc vật chất đang hiện hữu, chỉ muốn giải phóng chúng sinh ra khỏi các tư duy hữu ngã đang trói buộc chúng sanh mà thôi.
Thế giới hữu tình cũng như vô tình là sự chuyển dịch theo quy luật nhất định. Cho nên, các pháp phải vô thường, vô ngã. Tư duy hữu ngã bắt nguồn từ vô minh, tham ái choàng phủ lên sự vật kéo nó về làm ngã và ngã sở của chính mình. Khi ấy con người tưởng mình là chủ nhân của thế giới, nhưng thật ra đã là nô lệ ngay từ giây phút ban sơ của tư duy hữu ngã. Bi kịch cuộc đời phát sanh từ đây. Cái gì phát sanh từ hữu ngã thì luôn có giới hạn. Do bản chất năm uẩn là vô ngã nên chúng ta có thể tự cải tạo bản thân, nhưng phải hiểu rõ và quyết tâm thoát ly chúng. Cần luôn duy trì ý niệm năm uẩn là duyên sanh, không thật có, xa lìa những duyên tạo ra chúng thì chúng sẽ tự tiêu. Ðức Phật dạy:
‘Nếu một người không nhìn sắc, thọ, tưởng, hành, thức là tự ngã thì khi năm uẩn biến đổi, ưu não không khởi lên nơi vị ấy và vị ấy không chấp thủ hay ưu não về bất cứ điều gì. Này các Tỳ kheo, sắc là vô ngã nên sắc dẫn đến khổ não và không thể mong rằng: Sắc của tôi là như thế này; sắc của tôi không như thế này. Tương tự như vậy với thọ, tưởng, hành, thức’[3]
Về quán sâu và vô ngã, bài kinh số 9 của Kinh Tăng Nhất A Hàm có kể về chuyện Tôn giả Bà-kỳ-xá trên đường vào thành khất thực cùng Tôn giả A Nan, trông thấy có một cô gái đẹp, tâm liền rối loạn, mất bình tĩnh. Tôn giả liền thưa Tôn giả A Nan và được Tôn giả A-Nan hướng dẫn cách đối trị. Trên đường về, thấy cô gái kia nhìn mình mỉm cười. Tôn giả Bà-kỳ-xá liền sanh tưởng niệm: ‘Nay hình thể của người là xương đựng da bọc như cái bình vỡ bên trong chứa đồ nhơ nhớp, mê hoặc, khiến người đời cuồng loạn .. 36 vật (tóc, lông, máu, mủ..) thảy đều nhơ nhớp, cái vật này từ đâu sanh?’ Rồi Tôn giả lại quán tự thân: ’Dục này từ đâu sanh? Từ địa.. thủy.. hỏa.. phong chủng sanh chăng?. Ðịa chủng cứng rắn không thể phá hoại.. Thủy chủng mềm yếu không thể giữ gìn.. Hỏa chủng không thể giữ được.. Phong chủng vô hình cũng không thể giữ’. Tôn giả bèn nghĩ dục chỉ từ tư tưởng sanh liền nói kệ:
"Dục ta biết gốc ngươi
Chỉ do tư tưởng sanh
Ta không tư tưởng ngươi
Thì ngươi không hề có"
Nói kệ xong Tôn giả lại suy xét về bất tịnh, nhờ đó tâm hữu lậu được giải thoát. Sau khi nghe Tôn giả trình bày về chỗ tự giác của mình. Ðức Phật đã khen ngợi Tôn giả rằng: ‘Lành thay Bà-kỳ-xá! Khéo thay quán sát gốc ngũ ấm này. Ông nên biết, phận người tu hành phải quán sát gốc ngũ ấm này đều không bền chắc.. Vì khi Ta quán ngũ ấm dưới cội cây bồ đề thành Vô Thượng Chánh đẳng giác cũng như ông quán ngày nay vậy.’[4]
‘Một vài người xem ngã có nghĩa là cái gì thường được gọi là TÂM hay THỨC nhưng Ðức Phật dạy rằng chẳng thà người ta nên xem thân xác vật lý của mình như là NGÃ còn hơn. Vì tâm, ý hay thức thì biến đổi không ngừng, ngày cũng như đêm, còn mau chóng hơn cả thể xác.’[5]
Sự phủ nhận của Ðức Phật về cái ngã, linh hồn núp sau sự tập hợp của các uẩn không làm cho đời người Phật tử phiền muộn. Trái lại, một Phật tử chân chánh luôn hạnh phúc, an lạc và không hề lo lắng, sợ hãi, đảo điên.. vì đã biết mọi vật đúng như thật.
Thế Tôn dạy năm uẩn là vô ngã nhằm giúp chúng sanh nhổ ngay mũi tên độc chấp ngã và ngã sở, đoạn tận tham ái. Chính do nguyên nhân này, Ðức Phật không trả lời về những câu hỏi siêu hình như ‘Như Lai có hay không tồn tại sau khi chết..’ Vì chúng là sản phẩm của tư duy nhị nguyên đầy ngã tính. Ðức Phật dạy:
‘Người ngu có thể tìm kiếm cái ngã bằng cách nhấc các uẩn lên, nhưng họ không thể tìm thấy nó. Trong khi người trí nhìn thấy nó và nhờ đó mà được giải thoát.’[6]
Ðức Phật được tôn xưng là Ðấng Pháp Vương vì Ngài tự tại đối với tất cả Pháp, Dù ở đâu Ngài cũng không bị dính mắc vào cảnh trần, không bị lệ thuộc vào năm uẩn. Là hàng đệ tử Phật, muốn noi gương Ngài chúng ta thường xuyên quán vô ngã. Có vậy, những phiền não khổ đau sẽ là chất liệu giải thoát cho sự tu tập, hoặc sẽ được coi là chuyện bình thường không có gì bận tâm. Khi chưa thuần thục, tâm ta còn nhiều ngã chấp thì dễ đau khổ vì lời nói độc; Khi hết ngã chấp thì khổ đau không còn, nên Ðức Phật dạy:
"Như ngọn núi kiên cố
Không gió nào lay động
Cũng vậy, giữa khen chê
Người trí không giao động"
(Pháp Cú 81)
Con đường chân chánh đưa đến hạnh phúc vốn ở ngay trong mỗi chúng ta, trong cái nhìn của chúng ta về sự vật. Ðó chính là chánh kiến nhìn thấy mọi hiện hữu,ngũ uẩn là vô ngã, đưa con người đến chỗ giải thoát, thanh tịnh, an vui như lời Phật dạy:
"Tất cả Pháp vô ngã
Với tuệ quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh"
(Pháp Cú 279)
- Ngũ uẩn giai không:
Kinh tạng nguyên thủy đã đưa ra một giá trị chân xác về con người và cuộc đời nhằm chấp ngã và ngã sở do con người mê muội nhận lầm sanh khổ đau. Ðó là Vô ngã luận với Niết Bàn là lý tưởng tối cao. Qua thời kỳ Phật Giáo phát triển, Kinh tạng Ðại Thừa mở đầu bằng Kinh Bát Nhã vẫn chú trọng đến vấn đề thoát khổ của nhân sanh. Những vấn đề này được tóm lược thành Bát Nhã Tâm Kinh với phần trọng tâm nằm ở câu đầu: ‘Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã BaLa Mật Ða thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.’ Bát Nhã đã hướng dẫn con người dùng trí huệ quán chiếu năm uẩn là không. Mặt khác, người tu học theo tinh thần Bát Nhã có thể trực nhận được chân tâm của mình và tất cả những nỗi thống khổ trong cuộc đời sẽ được hóa giải nhẹ nhàng.
Trước hết, ngũ uẩn giai không xét về mặt hiện tượng, cũng chính là ngũ uẩn vô ngã. Ðó chính là tính nhất quán của Phật giáo nhẳm mục đích ‘Chuyển mê khai ngộ’ cho chúng sanh. Năm uẩn là không là vô ngã và năm uẩn là ‘Duyên sanh vô tính’ do mối tương quan của các nhân duyên hợp thành, vận hành theo công thức:
"Khi cái này có mặt thì cái kia có mặt"
"Khi cái này không có mặt thì cái kia không có mặt"[7]
Có thể nói duyên sanh là mối quan hệ nhân quả bất khả phân giữa mọi sự vật. Mối quan hệ nhân quả này đã được Bồ tát Long Thọ dùng để giải thích lý duyên sanh vô tính của ngũ uẩn trong phẩm Phá Ngũ Uẩn của Trung Luận.
Ngũ uẩn hòa hợp tạo nên thân người, trên cơ sở đó con người trở lại chấp ngã và ngã sở. Do đó, cần tu tập ngay nơi thân ngũ uẩn, phát triển trí huệ quán năm uẩn là không thì sự chấp ngã và ngã sở không còn lý do tồn tại; Khi không còn nhân tạo nghiệp, thì không còn quả khổ.
Cổ đức dạy:
‘Nếu không có gió quét mây mù, sao thấy được trời xanh vô tận’
Ðây là chỗ mà Kinh Lăng Già nói:
‘Khi các uẩn được phân tích, có cái nhận thức và có cái được nhận thức, do bởi hiểu khía cạnh này của tương đố tính, cái trí (cái biết) thật sự được sinh ra.’[8]
Pháp Dung thiền sư nói:
"Sắc tâm không nuôi dưỡng
Tư không vốn vô niệm
Thọ ngôn do nghiệp sanh
Pháp sanh chưa từng có
Ðâu cần Phật chỉ bày"
Sắc tâm chính là ngũ uẩn, không thật có. Tư là hành uẩn, không thực thể. Thọ ngôn là cảm thọ và ngôn ngữ do phân biệt mà sanh. Còn các pháp xưa nay vốn tánh tịch diệt, dù có Phật ra đời hay không nó vẫn thế. Quán ngũ uẩn trên cơ sở nhân như thế sẽ thành tựu KHÔNG. Vì ngũ uẩn duyên sanh, thoạt có, thoạt không, nên cũng gọi là như huyễn.
Do đó cần quan sát:
"Quán sắc như hòn bọt
Quán tưởng như nắng dợn
Quán thọ như bóng nước
Quán thức như trò huyễn hóa"[9]
- Quán hành như thân chuối
Ðức Phật dạy các pháp hữu vi là không thật có, không lâu bền. Ngũ uẩn là pháp hữu vi nên sanh diệt hằng biến. Chỉ những ai còn trong vòng mê mờ trói buộc mới cho là thật tướng.
Theo Nam tạng, thấy rõ ngũ uẩn là vô ngã thì không còn chấp thủ uẩn là mình, của mình hay tự ngã của mình. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Ðấy là ngõ vào giải thoát. Tại đây, chúng ta có thể kết luận giáo lý năm uẩn là giáo lý nền tảng của các bộ phái Phật giáo Bắc tạng cũng như Nam tạng.
Và ý nghĩa ‘Ngũ Uẩn giai không’ trong Kinh Bát Nhã không dừng lại ở đây. Ðức Phật nói: ‘Ngũ uẩn vô ngã’ nhằm phá trừ kiến chấp hữu ngã trên thân ngũ uẩn, vì chữ VÔ đây đối với HỮU mà thành lập. Do lẽ đó, trong vô thường tính của hiện tượng chúng sanh giới, Phật nói Ngũ uẩn vô ngã. Còn ở trong bản thể không hằng hữu, Phật nói Ngũ uẩn giai không. Ðây là hai mặt của một vần đề không thể tách rời.
Chữ KHÔNG theo Ngũ uẩn giai không là chỉ cho pháp duyên sanh không thật thể. Về mặt tiêu cực, chữ KHÔNG này là phi hữu tính của mọi cá thể, đứg trên phương diện đối đãi. Về mặt tích cực, nó chỉ cho tình trạng biến dịch, chỉ cho dòng chuyển hóa liên tục của hiện tượng giới với chuỗi nhơn quả triền miên. Còn theo ‘Ðệ nhất nghĩa đế’, cái KHÔNG này chỉ cho sự đồng nhất bất biến của vạn hữu vũ trụ trong bản thể Chơn không gọi là ‘Ðương thể tức không’.
Cái KHÔNG của Bát Nhã là bản thể của tất cả các pháp, không thể dùng ngôn từ để suy lường vì nó vượt ra ngoài cái biết của con người. Nó phá bỏ mọi hình thức cuối cùng, ngay cả ý thức về giải thoát. Ðó là tính KHÔNG rộng lớn vô biên trùm cả mười phương pháp giới, không phải là không ngơ.
Năm uẩn và các pháp từ cái KHÔNG này mà có. Bản chất các uẩn đã không tự có, do duyên hòa hợp nên không cố định. Sắc uẩn không cố định nên Bát Nhã nói ‘Sắc tức là không’. Khi đủ duyên hợp thành sắc nên nói ‘Không tức là sắc’. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Như thế, để biết ngay nơi tánh của các pháp là không sanh không diệt mà tướng thì giả tạm sanh diệt. Tánh tướng như sóng và nước, không rời nhau. Biết tướng pháp như huyễn, tánh không như huyễn thì không chấp chặt chạy theo huyễn tướng của thân này nữa. Do đó, phá được ngã chấp và pháp chấp, thể nhập ‘Pháp môn bất nhị’ thấy các pháp trong vòng đối đãi đều là huyễn hóa. Kinh Lăng Nghiêm nói:’ Niết bàn sanh tử đẳng không hoa’.
Trong kinh Pháp Bảo Ðàn, phẩm Chúc Lụy, ngài Lục Tổ dạy đệ tử rằng:
‘Sau này có người đến hỏi đạo, phải đáp ngược lại câu hỏi, như hỏi:
- Thế nào là phiền não? - Ðáp: Mê bồ đề.
Hỏi: Thế nào là mê bồ đề? - Ðáp: Theo phiền não ... ‘ Như vậy để chúng ta thấy các pháp không hai, nghĩa là hết phiền não, tức là Bồ đề. Danh từ hình tướng đều là pháp huyễn’[10]
Qua đó chúng ta thấy Ðại Thừa chủ trương diệt vọng tưởng bằng cách biết ngũ uẩn đương thể tức KHÔNG thì phiền não tức bồ đề, sanh tử tức Niết bàn. Lý do không bi quan của đạo Phật là thấy ngũ uẩn là huyễn hóa để đạt được cái không huyễn hóa, chính là Pháp thân ngay trong thân huyễn hóa này và chỉ có người đạt đạo mới thấy được. Như Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác trong Chứng Ðạo Ca:
"Vô minh thật tánh tức Phật tánh
Ảo hóa không thân tức Pháp thân"
Từ chỗ ngộ lý KHÔNG này Bồ tát vào đời độ sanh với tâm từ bi vô hạn lượng:
‘Bồ tát giống Thanh Văn, thấy tất cả mọi vật trên cuộc đời đều hoàn không. Nhưng Duy Ma nhắc Văn Thù thăm bệnh Bồ tát nhân gian nên nói với họ rằng: Tất cả đều trở về không, thấy pháp giả, không bền chắc nhưng đừng bỏ hạnh Bồ tát, bỏ chúng sanh’[11]
Cũng thế, ngộ được lý KHÔNG rồi các vị thiền sư đối cảnh an nhiên tự tại, tùy duyên mà độ sanh. Sắc không chỉ là lẽ thường của cuộc đời:
"Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thể thông thông thục bất bi
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiện nhậm suy di"
Dịch nghĩa:
"Thân như tường vách đã lung lay
Ðau đáu người đời lắm xót thay
Nếu đạt tâm không không tướng sắc
Sắc không ẩn hiện mặc vần xoay."[12]
Vì Kinh Bát Nhã được xem là mẹ của các kinh điển Ðại Thừa, nên tư tưởng: ’Ngũ uẩn giai không’ cũng bàng bạc trong các kinh thuộc hệ thống Phật giáo Ðại Thừa như Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa... Những bộ kinh này với hình thức ‘Chơn không diệu hữu’ đã hoàn thành tư tưởng hệ Bát Nhã về mọi phương diện, tạo nên hình thức phong phú của Phật Giáo hòa nhập vào dòng đời trôi chảy linh động, đem lại an lạc cho bất cứ ai tìm đến để mà thấy.
-------------------------------
[1] Tương ưng III, sách đã dẫn, tr. 125
[2] Ðại cương Câu xá luận, HT Thiện Siêu, VNCPH, 1992, tr. 84
[3] Phật tử, HT Thiện Châu THPG TPHCM, 1996, tr. 132
[4] Kinh Tăng Nhất A Hàm, HT Thanh Từ dịch, bản ronéo, tr. 50
[5] Con Ðường Thoát Khổ, sđd, tr. 95
[6] Nghiên cứu Kinh Lăng Già, sđd, tr. 318
[7] Luận án Tiến Sĩ, TT Chơn Thiện, tr. 41
[8] Nghiên Cứu Kinh Lăng Già, sđd, tr. 315
[9] Trung Quán Luận, phẩm phá ngũ uẩn, giáo tài của TT Thiện Nhơn
[10] Bát Nhã Tâm Kinh gỉảng giải, HT Thanh Từ, THPG TPHCM, tr. 39
[11] Lược giải Kinh Duy Ma, TT Trí Quảng, THPG TPHCM, 1991, tr. 296
[12] Thiền sư Việt Nam, HT Thanh Từ, THPG TPHCM, 1992, tr. 68
PHẦN III: ỨNG DỤNG SỰ TU TẬP NGŨ UẨN TRONG ÐỜI SỐNG HIỆN TẠI
Văn minh, văn hóa càng phát triển bao nhiêu thì công việc tổ chức thế giới của con người càng đa diện và phức tạp bấy nhiêu. Cứ nhìn những thanh niên nam nữ ngày nay, chúng ta đủ thấy môt thực trạng vô cùng lo ngại. Hơn nữa họ lại không ý thức được tình trạng của mình; Họ lao mình tới những văn minh, văn hóa ngoại lai trong một cơn sốt. Họ đang bệnh hoạn, hoặc suy thoái tinh thần, đang lâm vào cơn hiểm nghèo, chìm sâu vào khủng hoảng.
Khi phân tích con người thành ngũ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức - nói theo từ hiện đại là thân thể, tình cảm, tư tưởng, tánh tình, tri thức - trí huệ đạo Phật cho chúng ta thấy cả năm thứ này đều chi phối con người từ khi mới sanh đến khi chết. Và đường hướng giáo dục toàn diện của đạo Phật là phát triển đồng đều, thăng bằng cả thân và tâm. Nói cách khác, Ðức Phật không tách rời thân thể khỏi tâm trí con người.
Sau khi đã quán sát ngũ uẩn để biết rõ về con người và thế giới, chúng ta sẽ từng bước ứng dụng sự tu tập ngũ uẩn nhằm đạt lợi ích thiết thực qua một vài phạm trù sau:
1- Y học:
Cơ thể con người chẳng khác nào một bộ máy hoạt động không ngừng. Dù khoa học và y học có tiến bộ đến đâu chăng nữa, con người như một bộ máy vẫn bị luật vô thường chi phối. Tuy nhiên, nếu biết cách điều chỉnh thân tâm qua kinh nghiệm và những pháp vệ sinh, con người có thể kéo dài đời sống, tránh được tình trạng suy yếu, bệnh tật, xây dựng một nếp sống lành mạnh, tinh khiết.
Người Tây Phương có câu: ‘Một tinh thần minh mẫn ở trong một thân thể khỏe mạnh’. Thân thể khỏe mạnh có thể ví như ngôi nhà vững chắc hay con thuyền ra khơi thực hiện một chuyến du hành bình an với máy móc và thiết bị an toàn.
Thân con người thuộc sắc uẩn, do tứ đại hiệp thành nên phải dùng tứ đại bổ sung, như cơm, thuốc .. Người xưa thường nói: ‘Con người ta ăn để mà sống’. Về vấn đề điều hòa thân tâm để tu học, Ðức Phật luôn dạy người xuất gia là phải ‘Thiểu dục tri túc’.
‘ Vua Di Lan Ðà hỏi Ngài Na Tiên kỳ kheo:
- Sa môn có tự yêu thân mình không? Ðáp: - Không.
- Nếu chẳng tự yêu thân sao còn ở nhà mặc ấm, ăn thức ăn ngon và tự muốn bảo vệ nó?
Na Tiên hỏi gặn lại:
- Nhà vua đã từng vào chiến trận chứ? Ðáp : Có.
- Khi vào trận có bị thương chưa? - Có, vì bị dao đâm và tên nó chọt.
- Rồi Ngài làm sao? - Tôi lấy thuốc băng bó.
- Vì yêu vết thương mà băng bó hay sao? - Không phải, chỉ vì muốn nó mau lành.
Ngài Na Tiên nói:’ Các sa môn cũng thế, chẳng vì yêu thân, nên không ăn sang, mặc đẹp, chỉ dùng để chi độ cho thân thể đặng có sức khỏe phụng hành đạo pháp của Ðức Phật mà thôi.’[1]
Do đó, tuy dùng tứ đại bổ sung cho tứ đại, người xuất gia khi thọ thực vẫn thường quán tưởng, xem thức ăn như những món thuốc hay để trừ bịnh đói, nhằm trừ tâm đắm trước.
Theo đà phát triển của khoa học hiện nay, ngành Tây y đã chế ra nhiều loại thuốc kháng sinh, vitamin để trị liệu cho cơ thể con người. Tuy nhiên thuốc hay, đồ bổ cũng là con dao hai lưỡi, khéo xử dụng thì nó là bạn, còn dùng một cách tham lam tùy tiện thì con người sẽ là nạn nhân của thuốc do chính mình xử dụng. Thời hiện đại, con người mắc nhiều chứng bịnh ngặt nghèo kỳ lạ, nên việc hiểu biết những kiến thức y học cơ bản nhằm phát hiện được bệnh qua một số dấu vết để chữa kịp thời là điều cần thiết cho mọi người.
Như chúng ta đã biết ngũ uẩn cấu tạo nên cơ thể con người, chúng không thể tách rời mà luôn tác động hỗ tương cho nhau. Nhưng có thể nói trong hai phần Sắc và Tâm thì Tâm đóng vai trò chủ động tác động lên thân. Cổ Ðức nói: ‘Hữu tâm thì vô tướng, tướng tự tâm sanh, hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt’. Khi tâm hồn phấn khởi thì mọi vật đều nhuốm màu hồng, thấy đời có vẻ dễ chịu, không hoài nghi, thắc mắc. Nhưng khi cơn buồn sầu đến thì con người cảm thấy cô đơn, cảm thấy bị tách rời khỏi vũ trụ,cô lập khỏi xã hội.
"Bởi vì mắt ngắm trời xanh
Cho nên mắt cũng long lanh màu trời.
Bởi vì mắt ngắm biển khơi
Cho nên mắt cũng xa vời đại dương"
(Phạm Thiên Thư)
Ngành Ðông y ngoài việc bổ các loại thuốc cây cỏ lấy từ thiên nhiên cũng rất chú trọng đến phần tâm thần của con người. Theo Ðông y từ thất tình, lục dục, (hỉ, nộ, ái, ố..) tâm bịnh đã dẫn đến thân bịnh tác động vào lục phủ ngũ tạng như sau:
‘Ưu tư quá độ thương TỲ,
Buồn rầu thương PHẾ’, giận thì hại GAN.
Kinh sợ làm THÂN nguy nan
Vui mừng TÂM tổn nên an định thần.
(Lương Y An Triệu)
(Thương: Làm tổn thương)
Nếu hiểu thêm về pháp Ngũ hành, có thể dùng phương pháp ngôn trị (dùng lời nói) để làm giảm những nội kết đem lại thăng bằng cho thân tâm con người.
Ðó là những diễn biến tâm lý của thọ, tưởng, hành, thức mà chúng ta cần dùng trí quán để nhận ra nó và không bị nó cuốn trôi hay khiến mình thành nô lệ khổ đau. Bàn về pháp dưỡng sinh, Tổ Ðông Y Việt Nam là Thiền sư Tuệ Tĩnh dạy phải ‘Thanh tâm quả dục’ (giữ tâm trong sạch, ít ham muốn).
Ðạo Phật luôn chủ trương hóa giải tận gốc thân bệnh cũng như tâm bệnh của con người. Ðối với Ðạo Phật, hạnh phúc thật sự là sự an lạc nội tâm. Hiện nay pháp Thiền của Phật giáo được rất nhiều người trên thế giới hâm mộ và thực hành. Họ không chỉ xem đây là phương pháp dưỡng sinh phòng chống bệnh tật mà còn tìm đến Thiền như một con đường quay về sự thăng bằng của nội tâm, giải tỏa stress, những trạng thái căng thẳng thần kinh, sự bất ổn về mặt tâm lý trong cuộc sống hiện tại.
Ngoài những phương pháp tọa thiền, an tịnh tâm với các đề mục quán chiếu, pháp Thiền quán được các vị Thiền sư hướng dẫn áp dụng trong mọi lúc con người hoạt động, gọi là ‘Chánh niệm’. Cần giữ chánh niệm trong mọi lúc, tức luôn dùng trí quán sát con người và thế giới chung quanh có cùng mối tương quan, tất cả như là huyễn, hòa hợp theo duyên. Nhận diện từng thọ, tưởng với trí quán liên tục sẽ tạo nên những hạt giống tốt huân tập vào tiềm thức (tâm thức). Cứ như vậy con người sẽ thấy một cuộc sống mới mở ra trước mắt. Nhờ đó, con người cảm thấy tự tin hơn và có thể phát triển khả năng sáng tạo, điều chỉnh, hoàn thành nhân cách; Cao hơn nữa là thể nhập được nội tâm, tự tại, an vui, làm tất cả nhưng không vương mắc vào bất cứ việc gì.
Vua Kosala một hôm bạch Phật rằng: ‘Khác với đồ đệ các tôn giáo khác thường hốc hác, xanh xao, ít ưa nhìn... , đồ đệ của Ngài luôn vui vẻ, thanh thoát, hồn nhiên, thư thái.. ‘ Vua tin rằng: Tính chất lành mạnh đó là do: ‘Những vị Thượng tọa này chắc chắn đã nhận chân toàn vẹn ý nghĩa giáo lý của Ðức Thế Tôn’[2]
Chúng ta ngày nay tuy không được như những bậc Thánh xưa, nhưng vì chúng ta là đệ tử của Phật, hiểu lời Phật dạy, lúc nào chúng ta tỉnh giác, lúc đó chúng ta có an lạc.
2- Môi trường sống:
Hyppocrate, ông tổ nền Tây y, cho rằng môi trường thiên nhiên chung quanh luôn tác động đến con người; Vì thế người thầy thuốc phải quan tâm đến cách sinh sống, ăn uống, tuổi tác, hoàn cảnh, đất đai, nguồn nước, khí hậu, thời tiết chung quanh bệnh nhân. Nhưng gần đây, sự lo sợ một cuộc chiền tranh nguyên tử tiêu diệt nhân loại sau chiến tranh thế giới lần II lại được cộng thêm với một nỗi lo sợ mới là tai họa hủy diệt môi sinh, tai họa đưa con người vào cảnh diệt vong còn mau hơn tai họa chiến tranh.
Vấn đề bảo vệ sinh thái môi trường được đề ra tạo nên một phong trào lớn để con người nỗ lực đấu tranh cứu vãn sự sống của con người trên toàn thế giới trước thực trạng ô nhiễm, suy thoái. Sự ô nhiễm, suy thoái này đã làm kiệt quệ dần dần môi trường sống của con người và hàng trăm triệu loài động vật trên hành tinh này.
‘Phật giáo không chủ trương tách rời tâm khỏi vật, con người khỏi môi trường; Môi trường hay thế giới với con người ngũ uẩn là một. Thế mà, hành tinh của chúng ta đang bị ô nhiễm từ lòng đất, nước biển, sông, hồ, rừng cây, làng mạc, đô thị và cả bầu khí quyển đang bị tam độc tham, sân, si thúc đẩy. Vì lạc thú, vì lợi lộc, vì hận thù, con người bằng vô số hình thức đang hủy hoại môi sinh, tức đang hủy hoại mình và vô số chúng sanh khác’.[3]
Con người ngày nay chỉ biết có xã hội loài người, nhất là đối với con người sống nơi thành thị, hầu như lúc nào cũng nhìn thấy không gì hơn là những sự vật do con người tạo ra từ sự phát triển của xã hội. Họ đã quên hẳn thế giới thiên nhiên và hủy hoại thiên nhiên để chạy theo nhu cầu văn minh vật chất.
Quay về vũ trụ và thọ hưởng nó, không phải là độc quyền của những thi sĩ và nghệ sĩ. Vũ trụ sẽ tiết lộ cho bất cứ ai muốn thấy nó. Những kẻ chìm đắm, sa đọa phải ngước mắt nhìn vũ trụ và thấy chính mình là một phần của vũ trụ.
Khi Phật còn tại thế, việc bảo vệ môi sinh chưa đặt thành vấn đề, nhưng với lòng từ bi cứu khổ và trí tuệ sáng suốt, Ðức Phật với vai trò bậc Ðạo sư đã chủ động tìm cách xây dựng cho mình và hội chúng Tăng già một nếp sống hài hòa với thiên nhiên, một đạo tràng tu tập hướng tới giác ngộ và Niết bàn.
Trong nhiều bài thi kệ ngộ đạo, các vị thiền sư luôn thể hiện rõ ý này:
‘Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai’.
(Cáo tật thị chúng- Mãn Giác thiền sư)
Dịch nghĩa:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai’
(Bản dịch của HT. Quảng Ðộ)
Cảnh Xuân đến, Xuân đi, hoa nở, hoa tàn, phải chăng là nhũng bài học sinh động của thiên nhiên dạy chúng ta về cuộc đời vô thường, các pháp vô ngã... và trong bức tranh vô thường đó, thiền sư vẫn cảm nhận sự sống là bất diệt.
Như thế, Ðức Phật đề cao một nếp sống hài hòa với thiên nhiên và hài hòa với cả con người với tâm vô lượng. Phật tử đến với thiên nhiên như con ong đến với hoa:
‘Như ong chỉ lấy nhụy
Không hại hương sắc hoa
Cũng vậy vị Sa môn
Ra vào giữa thôn làng’
(Pháp cú 49)
Thiên nhiên yên tĩnh rất thích hợp với pháp thiền quán của Phật dạy. Người Phật tử chúng ta phải học theo nếp sống của Bổn sư, sống gần thiên nhiên, xa chỗ ồn ào, bụi bặm, đưa thiên nhiên đến tận trong nhà mình. Làm như thế, tức là truyền đạo, hành đạo. Không những xây dựng môi trường tu học lý tưởng đem đến sự yên tĩnh, sự tiến bộ về trí huệ cho tâm hồn được giải thoát tự tại còn góp phần bảo vệ được môi sinh cũng là bảo vệ lấy chính mình.
3- Phát triển tâm linh:
Khi đã hiểu rõ ngũ uẩn là hiểu rõ chính mình. Từ đó, chúng ta tu tập để đưa tâm thức lên tầng cao hơn. Ðó là từng bước chuyển ngũ uẩn hữu lậu thành Ngũ uẩn vô lậu.
Trước hết, muốn xây dựng một cuộc sống hạnh phúc phải dựa vào pháp và chính bản thân con người. Trên bình diện xã hội, dựa vào pháp có nghĩa là căn cứ theo quy luật tự nhiên của xã hội và dựa vào bản thân, là không nương tựa vào Thượng Ðế hay một quyền năng siêu nhiên nào. Về vấn đề này, Ðức Phật dạy Ngài A-nan:
‘Làm thế nào để có thể là hòn đảo hay chỗ trú ẩn của chính mình. Ấy là nhờ sự đào luyện của ý thức về thân xác, cảm giác, tâm ... (tu tập Tứ niệm xứ)’[4]
Từ chỗ có cuộc sống nội tại vững chắc, con người có được trí óc bình tĩnh sáng suốt với cái nhìn toàn diện về mọi sự vật. Trong Kinh Hoa Nghiêm, tiến trình chuyển ngũ uẩn hữu lậu thành vô lậu rất rõ ràng qua việc trình bày mười thân Phật.
Ngũ uẩn là căn bản xuất phát của muôn sự muôn vật. Ðức Phật cũng dùng thân ngũ uẩn này để làm Phật sự. Chúng ta cũng phải tu tập để không bị ngũ uẩn chi phối, không làm nô lệ cho nó dù mang thân vật chất kẹt với sắc uẩn, luôn bị bốn tướng nóng, lạnh, đói, khát ràng buộc. Ðiểm trọng yếu là ở chỗ đào luyện tâm. Chỉ cần sống với Thức uẩn, dù chưa phải là chơn tâm, chúng ta cũng không bị bốn tướng này chi phối.
‘Cần theo dõi và chuyển hóa phiền não trong tâm, không nên đè nén vì càng đè nén nó càng lớn. Nguyên tắc tương tức bất nhị của sự tu học là:
- Nhờ những tư tưởng, hành động (hạt giống tốt) để chuyển hóa.
- Nhận diện chúng, khi chúng xuất hiện trong ý thức
- Mời nó lên, trực diện với phiền não dưới ánh sáng chánh niệm.
Cứ mỗi ngày quán chiếu một ít dưới chánh niệm (trí huệ), chúng ta sẽ chuyển hóa được những niềm đau làm chúng ta sợ.’[5]
Ðau khổ cũng như mọi hiện hữu khác, là cần thiết cho tuệ giác nếu ta biết quán chiếu nó, nhìn sâu vào bản chất nó để tìm lối ra. Vì vậy, đau khổ là một Thánh đế, một sự thật linh thiêng, vì nó giúp ta giác tĩnh đi nhanh ra khỏi tham ái và chấp thủ để vào các Thánh quả.
Từ ngũ uẩn làm gốc, theo cái nhìn của Hoa Nghiêm, mọi vật trên cuộc đời từ dòng suối chảy đến tiếng chim, ngọn lá ... đều tỏa ánh sáng, mọi thứ đều là pháp thân của Phật. Nó như thế và muôn đời vẫn thế. Ðây là thế giới Hoa Nghiêm và là nơi kinh Pháp Hoa nói:
‘Chư Pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng’
Nhìn rõ cuộc đời và con người, ta phải tạo dựng một tri thức vững chắc trên thân bao gồm những đức tính tốt đẹp và một thân thể khỏe mạnh với đủ ba phước tướng: Tâm hoan hỉ, thân khỏe mạnh, và bạn bè tốt. (TT. Trí Quảng). Từ đây, ta có thể vào đời làm lợi ích cho nhân sanh theo hạnh nguyện của Bồ Tát và có thể tu tập đến những bước cao hơn.
‘Khi đã đầy đủ tâm từ bi, tròn hạnh Bồ tát kết thành Như Lai thân, hành giả không còn phải dấn thân như Bồ tát, không ẩn cư như Duyên giác, không trao đổi, sách tấn tu như Thinh văn. Như Lai không từ đâu tới và không đi về đâu. Chính thân đó tác động qua các loài chúng sanh, giáo hóa mọi người mà không cẩn cử thân động niệm. Như Lai như như bất động mà hóa độ chúng sanh bằng trí của Ngài và trí Như Lai chiếu đến đâu thì ở đó là Pháp thân. Ðó là Như Lai huệ chiếu vào vũ trụ, là trạng thái Chơn như bừng sáng với trí huệ thấu suốt mọi vật.’[6]
Ðấy cũng chính là chỗ mà Thiền sư Pháp Thuận đã nói:
"Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh"
Trong hiện tại chúng ta cần luôn quan sát với trí huệ Bát nhã thấy ngũ uẩn là trống không, không tự ngã chứng nhập đương thể vô ngã của các Pháp. Ðương thể ấy vô sanh nên vô đắc. Cho nên thấy có Niết bàn mà không thấy có người đắc, tự tại không vướng mắc gì. Ðó là Niết bàn ngay trong hiện tại, như Hòa Thượng Thiền Ấn đã có kệ:
"Tánh tịnh tướng, tướng tịnh tánh. Phi trung, phi ngoại liễu đốn siêu.
Tâm sanh Pháp, Pháp sanh tâm. Bất tức, bất ly, hành thâm tự tại."
---------------------
[1] Kinh Lời Vàng, HT Trí Nghiêm dịch, THPG TPHCM, 1992. tr. 99
[2] Con đường thoát khổ, sđd, tr. 49
[3] Trích phát biểu của HT Minh Châu; Một số vần đề cơ bản về sinh thái môi trường.
[4] Con đường thoát khổ, sđd, tr. 92
[5] Giảng luận Duy biểu học, TT Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996, tr. 310
[6] Quan niệm về Ðức Phật trong kinh Hoa Nghiêm, TT Trí Quảng.
PHẦN IV: NHẬN ÐỊNH VÀ KẾT LUẬN
Phật giáo: Cái nhìn trí huệ
Chân lý là những gì hết sức linh động và thực tại. Từ nhận định đó, đạo Phật đã thành lập dạo lý hướng dẫn con người hành động chứ không ngây thơ đặt những giáo điều, cứng nhắc mong áp dụng hoàn mỹ cho mọi căn cơ, thời đại. Vì vậy, đạo Phật với tinh thần khế lý khế cơ đã biểu hiện dưới nhiều hình thức uyển chuyển và ứng hợp phương châm ‘Phật pháp bất ly thế gian pháp’ như các thiền sư Việt nam với vô lậu ngũ uẩn thân đã đi vào xã hội, tùy duyên làm lợi ích cho quần sanh. Thiền sư Tuệ Tĩnh Sư Tổ ngành Nam dược Việt Nam. Thiền sư Nguyễn Minh Không mở ra kỹ thuật đúc chuông đồng, mở mang nền công nghiệp đúc đồng thời Lý. Thiền sư Vạn Hạnh, nhà tâm lý xã hội và là nhà chính trị, đã thực hiện công cuộc cách mạng phế Lê lập Lý, một cuộc cách mạng từ bi đạo đức nhất trong lịch sử Việt nam và thế giới .. Các thiền sư bất động trên sàng tọa mà có hàng trăm hàng ngàn người đi hành đạo.
Công cuộc truyền bá Chánh pháp của những người theo chân đấng Giác ngộ viên mãn được tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, lấy con người làm đối tượng để phục vụ, lấy nhân tính làm nền tảng kiến thiết một xã hội công bình, hợp lý đồng thời thừa nhận giá trị khả năng sáng tạo của con người, sống và phục vụ con người, vì sự hòa hợp vào đại thể rộng lớn của vũ trụ. Bằng nhận thức ấy, đạo Phật nhìn vũ trụ và con ngườì như một chuỗi nhân quả nối tiếp, trùng trùng duyên khởi, liên hệ mật thiết bất khả phân . Trong khi đó, các nhà Triết học phương Tây lại có cái nhìn tách biệt con người khỏi thế giới. ‘Vì thế đạo Phật là một thực tại sinh động cần thể nhập, hiểu biết mà không phải của khái niệm hay luận lý. Nếu nhìn đạo Phật qua lăng kính phân biệt ta sẽ mất nó’[1]
Ðến đây, chúng ta có thể tóm kết lại rằng trong ngũ uẩn, tuy sắc thân là cơ sở của thọ, tưởng, hành, thức nhưng mọi diễn biến trong cuộc đời từ sự hình thành đến hủy diệt thế giới đều do tâm. Ðạo Phật đã khơi mở trí huệ con người bằng mọi cách từ sự giáo dục với cái nhìn về bản chất cuộc đời đến những phương pháp hành trì cho tâm thật phát triển tới trạng thái vô lậu. Cái nhìn trí huệ ấy sẽ được làm cho mạnh hơn và nguồn tâm sáng tạo sẽ được đánh thức dậy qua sự thực tập thiền định như là công phu chính, thực hiện con đường (magga) Phật giáo dẫn đến giải thoát.
Trí tuệ tuyệt vời của Phật giáo đã mở cho con người thấy rõ mọi việc ‘Mầm mống phát sinh ngũ uẩn hay chấm dứt ngũ uẩn đều ở nơi ngũ uẩn’. Ðây là ý ngĩa chân thật của lời dạy danh tiếng của Ðức Phật: ‘Chính ngay trong thân này ta nói có thế giới và con đường đưa đến sự chấm dứt của thế giới’[2]
Nhân sanh quan Phật giáo qua ngũ uẩn đã khẳng định vị trí của con người trong vũ trụ, xua tan mọi mặc cảm yếu hèn trước thiên nhiên và các thế lực huyền bí. Nó đã khẳng định con người làm chủ vận mệnh của mình, chịu trách nhiệm về chính mình. Vì con người và vũ trụ là một, nên Cổ Ðức nói: ‘Tâm bình thời thế giới bình, tâm tịnh thời Phật độ tịnh’.
Do đó, con người có thể chuyển đổi được Nghiệp của mình và có thể tự xây dựng cho mình một cuộc sống an vui và hạnh phúc.
Vai trò người tu sĩ trong hiện tại:
Là người con Phật, hàng ngày sống thực hành những lời Phật dạy; chúng ta không thể thờ ơ với cuộc sống, không đòi hỏi những hạnh phúc vật chất hay tham cầu bất chánh. Cái nhìn rõ ràng về ngũ uẩn sẽ tạo cho chúng ta có niềm tin tưởng nhau, tạo nên những ổn cố cần thiết cho xã hội: ‘Phân tích hay thực hiện cái nhìn trí huệ năm thủ uẩn, lặp đi lặp lại hàng ngày sẽ mở ra con mắt huệ cứu khổ tự thân. Ðây là di chúc mà người xưa đã để lại trong Bát Nhã Tâm Kinh. Ở đây sẽ có duyên thấy đạo’. (TT Chơn Thiện)
Lý tưởng giải thoát chỉ được nuôi dưỡng bằng trí tuệ và lạc giải thoát của Thiền định qua nỗ lực thoát ly các nhân tố gây ra khổ đau từ thực tại khổ đau, như hoa sen tinh khiết vươn mình ra khỏi bùn từ thực tại bùn. Chúng ta cần thấy rõ thực trạng xã hội hiện nay. Con người đang rơi vào khủng hoảng, bị cuốn trong cơn lốc văn minh vật chất, văn hóa ngoại lai sôi động, đang cần có bàn tay chuyển hóa. Phải ý thức và thực nghiệm những khổ đau của cuộc đời, khi nào cuộc đời còn vấn đề phải giải quyết thì Ðạo Phật còn sứ mạng.
Chúng ta cũng không thể mong đạt đến chân lý tuyệt đối khi trí huệ còn mờ ám vô năng ‘Giai đoạn tu học trước mắt Tăng Ni sinh là giai đoạn nặng nề trách nhiệm đối với sự hưng suy của Phật pháp. Những trầm tư thao thức về Chánh Pháp sẽ làm trong sáng tư duy và tình cảm của người tu sĩ. Khác đi, là những gì u ám được đợi chờ.’ (TT Chơn Thiện)
Chúng ta cần tư duy quán sát nhiều hơn về Chánh pháp, nhìn thấy Chánh pháp qua cuộc đời, qua sự tác động giữa con người và xã hội, từng bước tu tập từ việc xây dựng một phần toàn thiện xã hội bằng tinh thần vô ngã vị tha, không lệ thuộc vào pháp, như ý nghĩa ‘Sở đắc là vô đắc, không nắm cũng không buông’[3]. Vì vậy, việc chấn chỉnh đường hướng giáo dục Tăng Ni là điều rất quan trọng và cần thiết. Nhờ vào nếp sống tu học tốt đẹp người tu sĩ mới có thể từng bước phát triển trí huệ vô lậu, đi vào xã hội để chuyển hóa khổ đau con người.
‘Hình bóng lý tưởng gần nhất của người tu sĩ phải là hình bóng của một Long Thọ, của một Huyền Trang, một Vạn Hạnh với đời sống đạm bạc gian khổ, nhưng ý chí thì vững chắc như kim cương; Ðức độ thì khiêm cung, nhẫn nhục; Hạnh nguyện thì rộng lớn như biển cả. Người xuất gia cần có đôi mắt sáng chiếu niềm tin, chói lòa nghị lực, cần có nụ cười bất diệt, xem nhẹ khổ đau để làm rõ chân tướng sáng rỡ của Ðạo Phật.’[4]
Từ chỗ hoàn thiện nhân cách, người tu sĩ với mắt tuệ và đầy tình thương nhìn cuộc đời, làm lợi ích cho nhân sanh, làm rất nhiều mà như không làm gì cả.
Con đường mà chư Phật đã mở, chư Tôn túc đã đi qua, bây giờ là lúc hàng Tăng Ni trẻ chúng ta bước vào, bước đi trên đó, sẽ đi những bước an tịnh, không vướng mắc vì an lạc, hạnh phúc của số đông.
"Không sanh cũng không diệt.
Sanh tử là Niết bàn
Sở đắc là vô đắc
Không nắm cũng không buông"
Thích nữ Như Ngọc
GSHD: TT. Thích Trí Quảng
_____________
SÁCH THAM KHẢO
- TƯƠNG ƯNG BỘ KINH 3, Ðại Tạng Việt Nam, HT Minh Châu dịch, 1993.
- TƯƠNG ƯNG BỘ KINH 5, Ðại Tạng Việt Nam, HT Minh Châu dịch, 1993.
- THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN, HT Minh Châu, Tu thư ÐHVN tái bản, 1971.
- CHÁNH PHÁP VÀ HẠNH PHÚC, HT Minh Châu, THPG TPHCM ấn hành, 1996.
- HÃY TỰ MÌNH THẮP ÐUỐC LÊN MÀ ÐI, HT Minh Châu, VN CPHVN, 1990
- ÐẠI CƯƠNG CÂU XÁ LUẬN, HT Thiện Siêu, Viện nghiên cứu PHVN, 1992.
- KINH TĂNG NHẤT A-HÀM, HT Thanh Từ bản ronéo PHV Từ Nghiêm
- GIẢNG GIẢI BÁT NHÃ TÂM KINH, HT Thanh Từ, THPG TPHCM
- PHẬT GIÁO, HT Thiện Châu, THPG TPHCM ấn hành, 1996
- ÐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN, HT Quảng Ðộ, Tu thư ÐHVN, 1969
- TIỂU THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN, HT Quảng Ðộ, Tu thư ÐHVN, 1969
- TỪ ÐIỂN PHẬT HỌC HÁN VIỆT, Phân viện nghiên cứu Phật học VN, 1992.
- KINH LỜI VÀNG, HT. Trí Nghiêm, THPG TPHCM, 1992
- GIẢNG LUẬN DUY BIỂU HỌC, TT. Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996
- LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA, TT Tri Quảng, THPG TPHCM ấn hành, 1991
- LƯỢC GIẢI KINH DUY MA, TT Tri Quảng, THPG TPHCM ấn hành, 1991
- PHẬT HỌC KHÁI LUẬN, TT Chơn Thiện, GHPGVN, BGD Tăng Ni ấn hành 1993.
- LÝ THUYẾT NHÂN TÍNH QUA KINH TẠNG PÃLI. TT Chơn Thiện, 1996
- NGHIÊN CỨU KINH LĂNG GIÀ, TT. Chơn Thiện, CS Trần Tuấn Mẫn, GHPGVN, BGD Tăng Ni ấn hành, 1992
- CON ÐƯỜNG THOÁT KHỔ, TKN. Trí Hải, ÐHVH, 1966
- HIỆP KHÍ ÐẠO, Thượng Trí dịch, Hội Hiệp khí nhu đạo Việt nam, 1969
____________
[1] Theo đạo Phật Ngày Nay, TT Nhất Hạnh, Lá Bối, 1965, tr. 42
[2] Con đường thoát khổ, sđd, tr. 68
[3] Giảng luận Duy biểu học, TT. Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996, tr.361
[4] Theo Ðạo Phật Ngày Nay, TT Nhất Hạnh, Lá Bối, 19965.