chuabuuchau.com.vn,chuabuuchau, chua buu chau, chùa bửu châu, chua buu chau cu chi

Vài nét về Tâm lý học phổ thông và Tâm lý học Phật giáo



MỤC LỤC

Lời nói đầu


PHẦN I:  DẪN NHẬP
Ý nghĩa - mục đích chọn đề tài và phạm vi đề tài

PHẦN II:  GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT TÂM LÝ HỌC PHỔ THÔNG VÀ TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO

I.  Vài nét về tâm lý học phổ thông và tâm lý học Phật giáo

1. Tâm lý học là gì?
2. Khái niệm tâm lý trong tâm lý học phổ thông
3. Khái niệm tâm lý trong tâm lý học Phật giáo

II. Nguyên lý tư duy của triết học phương Tây
1. Ba nguyên lý tư duy của Aristote
2. Giới hạn của các giác quan trong quá trình nhận thức

III. Các cấp độ nhận thức trong tâm lý học phổ thông và tâm lý học Phật giáo
1. Hoạt động nhận thức của tâm lý học phổ thông
2. Các cấp độ nhận thức trong tâm lý học Phật giáo

PHẦN III:  SẮC THÁI TÂM LÝ HỌC QUA CÁC YẾU TỐ CẤU HỢP THÀNH PHẦN TÂM LINH
(So sánh với tâm lý học phổ thông)
1. Thọ
2. Tưởng
3. Hành
4. Thức

PHẦN IV:  KẾT LUẬN
Đạo Phật với lối sống hướng nội và biện tâm

LỜI NÓI ĐẦU

Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “Chinh phục đối tượng”. Thực ra tâm lý không chỉ là ý muốn nhu cầu, thị hiếu và cách ứng xử của mọi người, mà nó còn bao hàm vô vàn các hiện tượng khác nữa. Tâm lý con người luôn gắn liền với từng hành vi cử chỉ.  Bất cứ một lời nói cử chỉ hay hành động nào của con người từ đơn giản đến phức tạp nhất cũng đều có mặt tâm lý cả.

Theo sách tâm lý dùng trong trường Sư Phạm đã khẳng định: “Tâm lý là đời sống tinh thần của con người”. Các nhà tâm lý học luôn luôn có ý định tìm hiểu cái “đời sống tinh thần” ấy qua các công trình nghiên cứu và trắc đạt. “Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các ngành Tâm lý học tin tưởng vào các kết quả thực nghiệm về tâm lý con người nhằm quan tâm mọi vấn đề trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ của thế gian.

Tâm lý học Phật Giáo có một sự liên hệ chặt chẽ với tâm lý học phổ thông qua sự phân tích các vấn đề tâm thức vô cùng tinh tế. Nhưng niềm ưu tư của Phật Giáo là chữa bệnh hơn là phân tích. Điểm trọng yếu là kết quả thiết thực đối với con người chứ không phải chỉ suy cứu suông có tính cách triết học. Tâm lý học Phật Giáo được xây dựng trên chân lý vĩnh hằng của Dukkha, một trạng thái bất toại nguyện của chúng sanh hữu tình mà Đức Phật đã tuyên bố:

“Chỉ có một điều, Như Lai dạy, đau khổ và chấm dứt đau khổ phải đạt đến “Như vậy, Tâm lý học Phật Giáo cũng không ngoài mục đích diệt khổ cho con người. Đức Phật đặt nặng sự chú ý vào tâm và những hiện tượng tâm linh là vì đời sống nội tâm có một vai trò quyết định làm phát khởi hành động của con người. An lạc hay đau khổ đều do cái tâm mà thôi. Tâm lý học Phật Giáo hướng dẫn ta vào đường lối phân biệt và khảo sát nhằm khuyến khích mỗi người tự phát triển năng lực và phẩm chất nội tâm.

Tìm hiểu Tâm lý học phổ thông và Tâm lý học Phật Giáo là hấp dẫn và hữu ích. Dù người viết chưa nghiên cứu một cách tường tận các vấn đề tâm thức cũng như chưa có sự chứng đạt tâm linh nào để có thể thấy sâu vào bên trong những sinh hoạt nội tâm bằng trí tuệ minh sát, nhưng với tinh thần của một sinh viên tập làm một đề tài khoa học người viết quyết định chọn vấn đề Tâm lý học trong khảo luận tốt nghiệp này.

Bài viết sẽ giới thiệu vài nét về Tâm lý học Phật Giáo để thấy rõ hơn rằng Tâm lý học Phật Giáo có liên hệ với tâm lý học phổ thông, nhưng có những điểm khác biệt căn bản về nguyên lý của sự tư duy, quan niệm về cấp độ nhận thức; Người viết sẽ trình bày về các yếu tố cấu hợp thành phần tâm linh và so sánh với Tâm lý học phổ thông do tầm quan trọng của chúng ta đối với cơ chế hoạt động tâm lý con người. Sau hết xin được khẳng định: Sự an lạc nội tâm và hướng dẫn được nội tâm chỉ có thể đạt được qua công trình tự quán chiếu dựa trên đức hạnh trong sạch và Thiền tập.

Hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, con xin thành kính ghi ân:
Thượng Toạ Thích Chơn Thiện. Tiến sĩ Phật học.
Giáo Sư Trần Tuấn Lộ. Tiến sĩ Tâm lý học
Đã khích lệ và tận tình hướng dẫn con trong quá trình thực hiện đề tài.
Trân trọng ghi ân Giáo sư Minh Chi và các tác giả của những tác phẩm đã cung cấp tư liệu cho luận văn tốt nghiệp.
NS Thích Nữ Hương Nhũ


PHẦN MỘT

DẪN NHẬP

Chúng ta đang sống trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang diễn ra ở quy mô toàn thế giới với mộc tốc độ chưa từng thất. Cuộc cách mạng ấy đã làm thay đổi về căn bản tính chất và nội dung lao động của con người. Con người phải đứng trước các yêu cầu về chức năng trí tuệ, các phẩm chất ý chí, tình cảm, các quá trình tâm lý và tính sáng tạo của tư duy. Thêm vào đó là một cuộc sống quá sung mãn về vật chất nhưng vẫn không có được niềm an lạc, hạnh phúc vĩnh hằng (mà họ cứ ngỡ rằng vật chất sẽ đem lại)  Niềm hạnh phúc trên thế gian mong manh như làn khói quyện, như áng mây trôi. Bên cạnh đó, sự sợ hãi, lo lắng, bệnh tâm thần do bất toại nguyện khôn ngừng phát sinh do ảnh hưởng các điều kiện trần thế, bắt nguồn từ tham dục và luyến ái. Cuộc sống bất an do sợ hãi thất vọng đem lại các chứng của bệnh tâm thần. Một nhà tâm lý học đã khẳng định:

Chúng ta tự hào là đã ng tr được thiên nhiên, nhưng chúng ta vn là nn nhân ca thiên nhiên bi vì chúng ta chưa hc được cách chế ng bn thân của chúng ta. Dn dn nhưng chc chăn, chúng ta tiến đến tai ho" 

Như vậy các cứng tâm thần cần phải được chế ngự và trị liệu. Sự chọn lựa tinh thần tiêu cực hay tích cực hoàn toàn do chính chúng ta. Mỗi con người đều có khả năng kiểm soát tinh thần mình. Trong cuộc sống hiện đại này, con người nếu không biết điều hợp tâm lý mình cho thích đáng chắc chắn sẽ bị rối loạn khủng hoảng, dễ dàng đưa đến ý nghĩ và hành động tiêu cực:

“Khó nắm giữ, khinh động
Theo các dục quay cuồng
Lành thay điều phục tâm
Tâm điều an lạc đến” 


Người trí phải biết điều hoà tâm, điều phục tâm. Phải biết rõ sự sinh khởi, vị ngọt sự nguy hiểm và sự xuất ly của từng trạng thái cảm thọ của tâm thức. Phương pháp căn bản của đạo Phật là quán xét nội tâm, nhìn thẳng vào nội tâm. Cái lối quay nhìn vào trong, lấy lòng tự xét lòng này trường phái Hành vi luận (Beheviourism) phê phán rằng nào có khác chi “đứng sau cửa sổ mà nhìn chính mình đi qua” Chỉ trích phương pháp quán nội tâm không có khả năng tách biệt chủ thể đi tìm hiểu với sự vật được quan sát. Quả là hành vi luận “đã nêu lên một vấn đề: Truyền đạt cho người khác những sự kiện nội tâm -vốn là cái rất riêng tư thầm kín của mỗi cá nhân. Có thể được hay chăng? Đối với một nền tâm lý học có tham vọng khách quan như tâm lý học Tây phương thì vấn đề cáng trở nên nan giải. Nhưng đạo Phật đã không đặt trọng tâm lý học của mình nơi điểm đó. Rất thực tế, chỉ nhằm cho chúng ta có thể tự biết lấy mình để làm chủ được trạng thái tâm thức của mình và có thể thoát khỏi khổ đau. Nếu có những phương tiện khác dễ dàng hơn, hoặc hiệu nghiệm hơn để trừ diệt khổ, thì không ai sẽ cần bàn đến triết học. 

Murti-triết gia người Ấn đã nói:

Sự tin chc rng nhng phương tin ca thế gian không phi là nhng phương thuc cha tr mà ch đ làm siết cht thêm nanh vut ca sinh t kh đau nơi chúng ta, rng ch có tu giác mi có th dit được ci gc ca kh, và đó chính là khi đim ca k lut tâm linh” 

Tâm lý học Phật giáo khẳng định con người là một tiến trình DANH - SẮC luôn luôn biến chuyển mà yếu tố quan trọng nhất nằm trong tiến trình TÂM. Kiểm soát tâm là trung tâm điềm, là nồng cốt của giáo pháp về những lời dạy của Đức Phật. Hạnh phúc có được phải do những yếu tố tinh thần bên trong tâm thức của ta.  Khi tâm nhơ uế thì không thể thành tựu điều chi đáng giá. Vì lẽ ấy, Đức Phật rất chú trọng đến trạng thái trong sạch của tâm. Xem đó là điều kiện thiết yếu để tạo hạnh phúc thật sự và đưa đến giải thoát mọi khổ đau. Tất cả những giáo lý chánh yếu trong Phật giáo như nghiệp báo, nhân quả và tái sanh, pháp hành Thiền và những thành quả tinh thần được nghiên cứu, nghiền ngẫm khảo sát như những sinh hoạt của tâm và như vậy Phật giáo được xem là một môn học về tâm lý thiết thực và trí tuệ nhất. Trong khi tâm lý học phổ thông định nghĩa cái tâm bằng những danh từ TỊNH qua những công trình nghiên cứu và trắc đạt, thì tâm lý học Phật giáo bằng trí tuệ minh sát đã định nghĩa đời sống tâm linh bằng những danh từ ĐỘNG, các vấn đề tâm thức được đem ra giải thích cặn kẽ hoàn toàn. Những sinh hoạt của tâm được đề cập trong Phật giáo đầy đủ hơn bất luận tôn giáo nào. Cho nên tâm lý học cùng sinh hoạt chung với Phật giáo nhiều hơn bất cứ tôn giáo nào khác.

Trong kinh điển Phật giáo, hơn mười lăm thế kỷ qua đã có ít nhất ba tạng luận về các vấn đề tâm lý được hình thành như là; Thắng pháp luận của Thượng toạ bộ, A TỲ Đạt Ma ca6u Xá Luận, của Nhứt thiết hữu bộ, Duy thức luận của Đại thừa. Tất cả đều phân tích tâm lý và chia tâm con người thành các nhóm thiện tâm, bất thiện tâm và phi thiện, phi bất thiện tâm. Tất cả đều nối kết thiền định làm phương tiện để chứng ngộ cái tâm con người và để giải thoát khổ đau. Tuy nhiên, qua sự học tập kinh tạng Nikàya, chúng ta tin chắc rằng phần tâm lý cũng đóng một vai trò quan trọng trong tạng kinh (Sutta Pitaka). Vấn đề tâm lý được giới thiệu qua nhiều hình thức khác nhau: Sáu xứ, mười hai xứ, mười tám giới, năm thư uẩn và duyên khởi. Ngoài ra những gì Đức Phật cần nói về bản chất của tâm, phương pháp thanh lọc tâm và làm chủ tâm đã được truyền dạy trong những bài giảng của tạng Kinh như bài Kinh Tứ niệm xứ (Satipatthana suttam), Đại phương quảng (Mahavedala suttam), An trú tầm (Vittakkhasanthana suttam)...

Như vậy, Phật giáo đã thiết lập được một hệ thống tâm lý hoàn mãn với đầy đủ sự phân tích rõ ràng về các vấn đề tâm thức, nay chúng ta dựa vào quả để suy cứu về nhân. Nhưng với tâm lý học phổ thông, tiến trình nghiên cứu và trắc đạt vẫn phải thực hiện theo đà phát triển của khoa học. Còn khoa học là còn các vấn đề tiếp tục đạt ra mà các nhà nghiên cứu phải giải quyết và hầu như chẳng bao giờ đi đến kết quả cuối cùng.

Hiện nay, tâm lý học phổ thông vẫn là một trong những khoa học quan trọng nhất về con người và hiện đang có mặt trong mọi ngành học của xã hội. Tâm lý học nghiên cứu tất cả hiện tượng tâm lý con người, tâm lý cá nhân và xã hội nhằm làm rõ những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến sự hình thành đời sống tâm lý con người nhằm mục đích tham gia vào việc giải quyết các vấn đề thực tiển mà xã hội đặt ra (kinh tế, sản xuất, giáo dục, sức khoẻ, hôn nhân...).  Nhưng do xuất phát từ nguyên hữu ngã, nên mặc dù các lý thuyết của tâm lý học vốn thực tiển và hữu ích cũng có giá trị tương đối trong việc giải quyết các vấn đề tâm lý và xã hội con người. Hơn nữa tâm lý học phổ thông với các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: Quan sát, thực nghiệm, trắc nghiệm tâm lý, đàm thoại, dùng bảng câu hỏi...dù chính xác cách mấy vẫn bị giới hạn vì kết quả đưa lại từ các giác quan vốn dĩ sai lầm và được đúc kết bằng tư duy hữu ngã vốn phi thực.

Đạo Phật thiết lập được một hệ thống tâm lý hoàn hảo vì thấy được vạn pháp như thật nhờ tuệ quán thông qua thiền định, bên cạnh các phương pháp đo lường trắc đạt. Đường lối này nhằm tiến đến những chân lý của đời sống không giống với đường lối của chủ nghĩa thực nghiệm. Tuệ minh sát phi thường của Đức Phật thấy sâu vào bên trong những sinh hoạt của tâm điều này khiến Ngài được nhìn thấy như một nhà tâm lý và một nhà khoa học siêu tuyệt.

Chương trình tâm lý học đại cương và các thứ phân môn khác của tâm lý học đang được giảng dạy trong các trường Đại học sẽ được đề cập đến trong luận văn này bằng danh từ tâm lý học phổ thông.  Phật giáo cũng có một hệ thống những khái niệm, những thuật ngữ tâm lý học riêng của mình phù hợp với những quan niệm, quan điểm của Phật giáo về nhân sinh không ngoài mục đích diệt Khổ.  Người ta có thể tự hỏi tâm lý học phổ thông (TLH của đời) và tâm lý học Phật giáo (TLH của đạo) có gì giống nhau và có gì khác nhau? Chỉ có biết tâm lý học phổ thông hay chỉ biết tâm lý học Phật giáo là đủ hay cần phải tìm hiểu cả hai?

Luận văn này với cái tên đề tài: “Vài nét về tâm lý học phổ thông và tâm lý học Phật giáo” chỉ nhằm một mục đích khiêm tốn: Phân tích sự giống nhau và khác nhau qua một số khái niệm và thuật ngữ trong hai bộ môn tâm lý học nói trên để đi đến kết luận việc học tâm lý học Phật giáo nên tiến hành đồng thời với việc nghiên cứu tâm lý học phổ thông.  Đó là cơ sở để mọi người có khái niệm rõ ràng hơn khi người tu sĩ Phật giáo đề cập đến các vấn đề tâm thức.

Tâm lý học phổ thông cũng có rất nhiều loại, tuỳ theo từng trường phái, từng thời đại, tuỳ theo thứ triết học làm nền tảng cho từng trường phái ấy. Ở Việt Nam tâm lý học đang được giảng dạy trong các trường Đại học theo quan điểm triết học Mac-LeNin. Tâm lý học Phật giáo cũng có một cơ sở lý thuyết vững vàng. Hơn nữa cơ sở lý thuyết ấy đứng trên một quan niệm tâm lý học ĐỘNG và PHÂN TÍCH, giúp con người vượt lên khỏi tầng lớp nhận biết thông thường đến mức thực nghiệm chính đời sống mà tất cả đều có thể được con người thể nghiệm ngay trong thực tại. Vấn đề này sẽ được sáng tỏ hơn khi đi vào phần khảo sát kế tiếp của luận văn.

PHẦN HAI

GIỚI THIU TNG QUÁT TÂM LÝ HỌC PH THÔNG VÀ TÂM LÝ PHT GIÁO
I. VÀI NÉT VỀ TÂM LÝ HỌC PHỔ THÔNG VÀ TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO

1. Tâm lý học là gì?

Thuật ngữ tâm lý học bắt nguồn từ hai tiếng La Tinh: Psyche: Có nghĩa là tinh thần và Logos có nghĩa là khoa học. Tâm lý học có nghĩa là khoa học về tâm lý.

Khoa học tâm lý là hoạt động và kết quả của sự tìm hiểu cội nguồn và sự vận động của các hiện tượng và quy luật tâm lý.

· Xét về mt hin tượng Tâm lý (cái tâm hiểu theo nghĩa rộng) là tất cả những quá trình và những sản phẩm của hoạt động phản ánh hiẹn thực khách quan vào trong não.  Đó là những quá trình: Cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng, chú ý, ghi nhó, nhớ lại, xúc cảm và hành động...Đó là những sản phẩm như hình ảnh, biểu tượng, khái niệm, tư tưởng, tình cảm, ý chí, xu hướng, năng lực, tính cách, khí chất...

· Xét về mt bn cht:  Tâm lý là sự phản ánh một cách chủ quan cái hiện thực khách quan nào trong não của mỗi con người như là chức năng của não nói riêng, của hệ thần kinh nói chung. Ở con vật cũng có tâm lý nhưng cái khác nhau cơ bản giữa tâm lý con người và tâm lý con vật là ở chỗ tâm lý con người phong phú đa dạng và có trình độ cao hơn hẳn, mà chúng ta gọi là ý thức, cái mà động  vật không thể có được.

Tâm lý con người có hai cấp độ:  Tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội.

2.  Khái niệm tâm lý trong tâm lý hc ph thông:

a. Thuật ngữ tâm lý trong khoa học là tất cả những hiện tượng tinh thần:

xảy ra trong tinh tâm thức con người, gắn liền và điều hành mọi hoạt động, hành động của con người.  Theo cách hiểu này thì tâm lý con người và nhận thức, trí tuệ, cảm xúc, tình cảm, ý chí đến tính cách, ý thức và tự ý thức, là nhu cầu năng lực của con người.  Đến các động cơ hành vi, đến các hứng thú và khả năng sáng tạo, khả năng lao động đến các tâm thế xã hội và những định hướng giá trị của con người....

b. “Cái tâm” trong tâm lý học phổ thông:

Tâm là toàn phần được tổ chức của những tiến trình và kết cấu tâm lý, tri giác, vô tri giác và nội tâm linh;  Về mặt triết học, thay vì về mà tâm lý là thực thể hay tầng lớp căn bản của những kết cấu và tiến trình ấy. 

Theo triết học: Tâm được dùng theo hai nghĩa chính:

* Tâm cá nhân là cái tự ngã hay chủ thể tri giác, hồi nhớ, tưởng tượng, cảm giác, quan niệm, lý luận, ước muốn....và về mặt chức năng liên hệ với một cơ thể cá nhân.

* Tâm khảo sát với tính cách chung, là một thể chất siêu hình thấm nhuần tâm của tất cả mọi cá nhân và nó là đối nghịch với vật chất hay vật thể

So sánh với “Cái Tâm” trong tâm lý học Phật giáo thì cái nhìn của Đạo Phật về phương diện này rất tổng quát, không giới hạn vào con người, vì xem con người như một trong các sinh vật, như một thành phần trong cuộc sống nói chung. Tâm ở đây không phải là cái tự ngã hay chủ thể tri giác mà chỉ là một dòng trôi chảy của các nhân duyên. Cuộc sốg là một tiến trình miên man không ngừng trôi của thập nhị nhân duyên. Đời sống tâm lý tất nhiên không ra ngoài tiến trình ấy.

c. Chức năng của tâm lý:

Mọi hành động của con người đều do tâm lý điều hành. Sự điều hành ấy biểu hiện qua những chức năng sau đây:  

- Chức năng nhận thức của tâm lý:  Chức năng này giúp con người nhận biết thế giới khách quan, giúp con người phân tích đánh giá sự vật, hiện tượng xảy ra chung quanh mình.

- Chức năng định hướng khi bắt đầu hoạt động: Trước hết ở con người xuất hiện các nhu cầu và nảy sinh động cơ, mục đích hoạt động (lý tưởng, niềm tin, lương tâm, danh dự...).

- Chức năng làm hành động thúc đẩy hoạt động: Tình cảm, tình yêu, say mê, căm thù....

- Chức năng giúp con người điều chỉnh hoạt động: Bằng trí nhớ và khả năng phân tích, so sánh.

d. Đặc điểm của tâm lý:

- Các hiện tượng tâm lý vô cùng phong phú, phức tạp và đầy bí ẩn, như tục ngữ có câu:

“Dò sông, dò biển dễ dò,
Lòng người trắc trở ai đo cho tường”.


Với đà phát triển của khoa học kỹ thuật hiện nay không phải mọi bí ẩn của các hiện tượng tâm lý đều giải thích được.  Tâm lý học phổ thông đã chứng minh được sự tồn tại của nhiều hiện tượng siêu tâm lý (thần giao cách cảm, thấu thị..) đến nay vẫn chưa thể giải thích được cơ chế của các hiện tượng đó.

- Các hiện tượng tâm lý tuy phong phú, đa dạng nhưng liên hệ nhau chặt chẽ.  Chúng tác động, ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau.

- Tâm lý học phổ thông cũng nhìn nhận tâm lý là hiện tượng tinh thần, tồn tại trong đầu óc con người. Chúng ta không thể nhìn thấy nó, không thể sờ thấy, không thể cân đo, đong, đếm một cách trực tiếp như những hiện tượng vật chất khác. Do vậy, tâm lý học phổ thông đã nghiên cứu các hiện tượng tâm lý bằng nhiều phương pháp mà điển hình là phương pháp quan sát những biểu hiện bên ngoài của tâm lý bên trong thông qua các giác quan. 

- Các nhà tâm lý học khẳng định:

“Các hiện tượng tâm lý có sức mạnh vô cùng to lớn trong đời sống con người. Tâm lý có thể làm tăng hoặc giảm sức mạnh tinh thần và cả sức mạnh vật chất của con người. Thậm chí con người cũng có thể chết vì tác động tinh thần, tác động tâm lý”  

Đối với nhận định này, người viết cũng nhận thấy rằng: Trong tất cả năng lực, tâm lực là mạnh mẽ nhất và không ai thấu triệt rõ ràng năng lực của tâm bằng Đức Phật. Tâm lý học Phật giáo không phủ nhận thế gian vật chất và ảnh hưởng lớn lao của thế gian vật chất trong đời sống tâm linh, nhưng vẫn nhấn mạnh hơn hết tầm quan trọng của tâm. Một tỳ kheo bạch hỏi Đức Phật:

Bạch Đức Thế Tôn, cái gì hướng dn thế gian, Cái gì lôi cuốn thế gian?

Đức Phật khẳng định:

Thật vy, này t kheo, tâm hướng dn thế gian, tâm lôi cun thế gian, tt c đu vn chuyn dưới năng lc ca mt pháp, cái tâm”.  

Vì thế, con người phải hiểu sự thật của chính mình và biết làm thế nào để đạt hạnh phúc trong hiện tại và tại đây. Vấn đề này đã được Đức Phật dạy:

“Tâm tế vi khó thấy,
Vun vút theo dục trần
Người trí phòng hộ tâm
Phòng tâm thì an lạc” 


3.  Khái niệm tâm lý trong tâm lý hc Pht giáo:

- Có nhiều bộ luận bàn về tâm lý học Phật giáo như là: Thắng Pháp Luận, A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận Duy Thức Luận, Thanh Tịnh Đạo Luận...ở đây đơn cử Thắng Pháp tập yếu luận (văn học Abhidhamma) với bốn vấn đề được đem ra giải thích cặn kẽ hoàn toàn thuộc về con người và đặc biệt lá phần tâm thức.  Nếu tâm lý học phổ thông cho rằng tâm lý của con người và đặc biệt là phần tâm thức.  Nếu tâm lý học phổ thông cho rằng tâm lý của con người bao gồm hoạt động nhận thức, đời sống tình cảm, hành động, ý chí, trí nhớ, tính cách, khí chất, xu hướng và năng lực thì tâm lý học Phật giáo đứng trên quan điểm động, nhìn cả bề đầy kích thước lịch sử của sự sống mà phân tích những thành phần tâm lý và đi sâu vào nguyên nhân, điều kiện hình thành tâm lý con người. Vì vậy mà phân tích các cơ quan, các chức năng sinh lý làm nền tảng cho đời sống tâm lý.

Bốn pháp được đề cập trong văn học Abhidhamma là: Citta (tâm), cetasika (tâm sở), Rùpa (sắc) và Nibbàna (Niết Bàn). Niết Bàn thuộc về tâm thức còn sắc pháp là để cập đến thân thể con người, và sự liên lạc giữa thân thể ấy với tâm thức. Đức Phật không tách rời tâm và sắc vì cả hai tương quan liên đới.  Nếu nó danh (Nàma) và Sắc (Rùpa) thì danh thuộc về tâm pháp  và sắc thuộc về sắc pháp.  Nếu nói về Sắc uẩn (Rùpakkhandha) thuộc sắc pháp còn bốn uẩn còn lại: Thọ, Tưởng, Hành, Thức thuộc về tâm Pháp.

Điểm nổi bật trong tâm lý học Phật giáo là sự phân tích rất tinh thề và tỉ mỉ các tâm và tâm sở. Theo văn học Abhidhama có đế 89 tâm hay 121 tâm (citta)(Nếu siêu thế giới tâm được giới thiệu đơn giản có 8 thì tâm vương có 89 pháp, nếu siêu thế giới tâm được giới thiệu chi tiết gồm 40 tâm, trừ 8 tâm của Thiền, thì tâm vương có 121 tâm Pháp)

A.  Một tâm (citta) là do nhiều yếu tố tâm lý hình thành, các yếu tố này được gọi là tâm sở (Cetasika), tuỳ theo loại tâm mà các tâm sở có mặt khác nhau. Có 52 tâm sở tất cả. 

+ Rồi tâm lại được chia chẻ theo cảnh giới như:

- Dục giới tâm, Sắc giới tâm, Vô sắc giới tâm, Siêu thế tâm

+ Chia chẻ tâm theo khả năng hướng thiện hay không hướng thiện:

- Bất thiện tâm, Thiện tâm, Vô nhân tâm, Tịnh quan tâm

+ Chia chẻ tâm theo khả năng tái sanh một đời sau hay không như:

- Thiện tâm, Dị thục tâm, Duy tác tâm

+ Đứng về phương diện căn nhân chi phối các tâm ấy thì tâm được phân tích thành:

- Hữu nhân tâm, Vô nhân tâm.

B. Phần tâm sở lại càng tế nhị hơn, ví dụ khi nhãn thức khởi lên thì sẽ có 7 biến hành tâm sở cùng khởi một lần: Xúc, Tác, Ý, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất Tâm, Mạng căn. Hơn thế nữa là những bảng thống kê tỉ mỉ tìm tòi số lượng các tâm sở hiện hành trong một tâm và những tâm sở nào được tìm thấy trong những loại tâm nào.

Ví dụ:  Hỉ tâm sở có mặt trong 51 tâm.

Xà tâm sở khởi lên trong 70 tâm và một tâm giản dị như Tiếu sanh tâm cũng có đến 12 tâm sở cùng khởi lên một lần (Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất Tâm, Tác ý, Mặng căn, Tầm, Tứ, Hỉ, Tinh tấn, Thắng giải).

Điểm đặc sắc hơn nữa là tâm lý học Phật giáo đã giải thích tường tận về lộ trình của tâm (Cittavìthi).  Mỗi khi có một sự kích thích ở ngoài ngang qua 5 căn thời có cả một số tâm tiếp diễn liên tục, khởi lên, diệt xuống, kéo dài trong khoảng 16 tâm sát na.

1.  Hữu phần chuyển động - Bhavangacalana.
2.  Hữu phần dừng nghỉ - Bhavangupaccheda.
3.  Ngũ môn hướng tâm - Pancadvàràvajjana.
4.  Một trong 5 thức khởi lên - Vinnàna
5.  Tiếp thọ tâm - Sampaticchana
6.  Suy đạc tâm - Santìrana
7. Xác định tâm - Votthapana
8. => 14 Tốc hành tâm - Javana
9. => 16 Đồng sở duyên tâm - Tadalambana.


Như vậy từ khi “hữu phần chuyển động” cho đến “đồng sở duyên tâm” có đến 16 tâm sát na, và nếu cộng thêm một tâm sát na nữa là thời gian cần thiết để đối tượng ở ngoài tiếp xúc với nội căn, thời chúng ta thấy: Đời sống một lộ trình của tâm có đến tất cả 17 tâm sát na và có 7 loại tâm khởi lên rồi diệt xuống trong một lô trình (từ “ngũ uẩn môn hướng tâm” đến “đồng sở duyên tâm”). Quả là một sự khám phá hy hữu, một sự phân tích thật vô cùng khúc chiết và tế nhị. Chỉ có tuệ minh sát phi thường của Đức Phật và các bậc tu chứng mới có thể nhìn sâu vào bên trong những sinh hoạt của tâm một chi ly và rõ ràng như thế. Những vấn đề tâm thức này có chăng sự phủ nhận của các nhà khoa học tâm lý? Ngay từ thời Đức Phật còn tại thế Ngài đã nhìn thấy trong bát nước có vô số vi trùng mà cả ngàn năm sau khoa học mới chứng minh được. Với Phật nhãn quan sát thật tướng của các pháp, Đức Phật đã trông thấy tất cả không sót một mảy may. Thế nên Tỳ Ni Chỉ Trì Âm Nghĩa nói:

Phật nhãn có đy đ lực dụng ca bn th mt: Nhc nhãn, Thiên nhãn, Hu nhãn, Pháp nhãn, thy biết sut tt c. Như người thy nơi tht xa thì đi vi Pht là gn, ch người thy ti thì Pht thy sáng t, cho đến không có gì là Pht không thy, không nghe, không biết.  Pht thấy nghe h dng thy tt c mà không suy nghĩ.”

* Vấn đề  Sắc giới tâm, vô sắc giới tâm và siêu thế tâm vượt ra ngoài sự hiểu biết của con người.  Nhưng các thứ tâm tế nhị này không phải là sản phẩm của lòng tin, của sự tưởng tượng hay dự đoán mà là trạng thái tâm thức chưa được phát giác ra, bởi kinh nghiệm cá nhân của con người chưa đạt tới, mà mỗi khi đạt tới thời trở thành thực nghiệm của tâm linh.

Ví dụ muốn chứng được Sắc Giới Tâm bằng sự tu tập, và đã chuyển chúng trở thành kinh nghiệm tâm lý. Tâm không phải là cái gì có thể sờ nó bằng tay hay quan sát, trắc nghiệm bằng mắt và bằng các phương pháp trắc đạt. 

Nó thì vô hình. Nếu tâm lý học phổ thông cho rằng phải “nghiên cứu các hin tượng tâm lý bng cách QUAN SÁT nhng hiu hin bên ngoài của tâm lý bên trong thông qua các giác quan” thì tâm lý học Phật giáo khẳng định: Không thể kho sát tâm lý bng năm giác quan. .

Abhidhamma cũng là đạo đức học của Đạo Phật, vì tất cả lời dạy trực tiếp hay gián tiếp của Đức Phật cũng đều hướng đến giải thoát, giác ngộ. Tiêu chuẩn đạo đức ở đây không phải là lời phán xét của Đức Phật, cũng không phải dựa vào truyền thống hay tập tục của một thời đại nào. Tiêu chuẩn thiện ác ở đạo Phật tuỳ thuộc ở con người. Kinh Tăng Nhứt A Hàm, Đức Phật dạy:

“Bất luận thiện pháp nào, bất luận gì liên quan đến hay thuộc về bất thiện pháp tất cả đều xuất phát từ tâm” và “Bất luận thiện pháp nào, bất luận gì liên quan đến thiện pháp, tất cả đều xuất phát từ tâm”.

+ 12 Bất thiện tâm Abhidhamma được định  nghĩa là những tâm khiến con người đi xa đích giải thoát và giác ngộ (những tâm bất thiện thuộc tham, sân và si).

+ 18 Tịnh quan tâm: Là những tâm lưng chừng, yếu ớt, không tới cũng không lui.

+  59 Vô nhân tâm: Là những tâm khiến con người tiến dần đến mục tiêu giải thoát và giác ngộ.

Ở đây, chúng ta phải nhận rõ thái độ tâm lý học Phật giáo: Không những trình bày lý thuyết của mình mà còn phải sống theo lý thuyết ấy trên thực tế để kinh nghiệm. Đó là “tu hành hợp nhất, trí đức song tu”. Đạo Phật bao giờ cũng chú trọng đến lý trí suy luận, thực tu thực chứng, lẽ dĩ nhiên bao giờ cũng kính trọng những nguyên tắc căn bản  của pháp suy luận và do vậy chúng ta có thể nói phần luận lý lúc nào cũng tiềm tàng trong tạng Abhidhamma.

* Trong tâm lý học Phật giáo phần sắc pháp cũng được trình bày rất tận tường, khúc chiết. Sắc pháp đề cập đến thân thể con người, Đức Phật không tách rời sự liên lạc giữa thân thể với tâm thức vì danh và sắc tương quan liên đối với nhau.

C. Sắc pháp, theo Abhidhamma (A Tỳ Đàm), là 4 đại chủng và các sắc do 4 đại chủng tạo nên: Các sắc ấy gồm có 22 thư: Đại chủng sắc (địa, thuỷ, hoả, phong), Tịnh sắc (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân); Hoàn cảnh sắc (sắc, thanh, hương, vị, xúc). Bản tính sắc (nam tính, nữ tính); Tâm sở y sắc (tâm cơ); Mạng sắc (mạng căn); Thực sắc (đoàn thực). Hạn giới sắc (không giới); Biểu sắc (thân biểu, ngữ biểu). Biến hoá sắc (khinh-khoái, nhu nhuyến, kham nhậm) và Tưởng sắc (sanh, trú, lão, vô thường). Tất cả là 28 sắc pháp.

d.   Niết bàn:

- Nhìn tự tánh Niết bàn thì Niết bàn chỉ có một loại.

- Nhìn từ kinh nghiệm từ cõi sinh diệt thì Niết bàn có hai loại:

Hữu dư y (Niết bàn trước khi chết) và Vô dư y (Niết bàn sau khi chết).

- Nhìn từ hành tướng thì Niết bàn có ba: Không, vô tướng, vô nguyện.  Niết bàn, tự tánh nó là an tịnh, dập tắt tất cả Ái (ái diệt, thủ diệt, thức diệt)

Tất cả các pháp kể trên đều liên hệ với nhau theo “duyên sinh”, tất cả đều do các duyên mà sinh khởi như giáo lý 12 chi phần nhân duyên trong Kinh tạng Pàli.  Điều này có nghĩa là con người là sự vận hành của 12 chi phần nhân duyên mà sự phân tích chi li các tâm lý đã hình thành ra tâm lý học Phật giáo.

Theo duyên khởi, thế giới hiện tượng là do duyên mà sinh khởi, là vô thường, khổ và vô ngã. Ba đặc tướng ấy của đời sống ngự trị toàn khắp thế gian. Kể cả cái gọi là chúng sanh, được phân tách ra làm năm nhóm luôn luôn biến chuyển cũng chẳng có chi ẩn náu,  chẳng có chi được bảo tồn lâu dài trong luồng trôi chảy của năm nhóm ấy. Đó là sắc (hay cơ sở vật chất), thọ, tưởng, hành và thức.

Vì không thấy bản chất thật sự của các Pháp, cái nhìn của chúng ta luôn luôn bị che lấp bởi những thành kiến sẵn có tánh tham và sân, thương và ghét...chúng ta không thể nhận thấy lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) và lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) một cách khách quan, theo đúng bản chất như nó đang là, và cứ thế chạy theo những gì là ảo huyễn hoặc.  Giác quan lừa phỉnh là dẫn dắt ta đi sai đường lạc nẻo, như thế cái nhìn của ta đối với vạn pháp trở nên lầm lạc.  Đó là nguyên nhân dẫn đến khổ đau. Về vấn đề này Đức Phật dạy:

Kẻ phàm phu ngu si vô hc, vì không biết như tht sc, tp khi ca sc, dit tn sc, con đường đưa đến dit tn sc, vì ngt ca sc, nguy him ca sc, xut ly ca sc, cho nên hoan h sc, tán thán sc, th trước sc, nơi sc thy ngã, ngã sở đ chp th. Do chp th, nên khi sc y hoc biến chuyn, hoc đi khác, thì tâm b biến chuyn, đi khác theo, nên trì gi tâm mt ch. Do trì gi tâm mt ch nên sanh ra s hãi, chướng ngi, luyến tiếc. Vì có sanh nên b trói buc. Đối với th, tưởng, hành thc cũng li như vy”.  

II. NGUYÊN LÝ TƯ DUY CỦA TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY.

1.  Ba nguyên lý tư duy ca Aristote: Trong kinh Tăng Nhứt A Hàm Đức Phật có đề cập đến ba loại ảo kiến hay hiểu biết sai lầm hằng bám chặt vào tâm người đó là: tri giác sai lầm, suy tư sai lầm và kiến thức sai lầm. Những sự vật vô thường, người ấy thấy là thường còn, người ấy thấy thoả mãn trong hoàn cảnh bất toại nguyện (thoải mái và hạnh phúc trong đau khổ), thấy một bản ngã trong cái vô ngã, những vật đáng ghê sợ, nhàm chán vẫn thấy là đẹp, thích thú....Với những định kiến hữu ngã vốn dĩ sai lầm lại thêm các ảo kiến không ngừng tác động nên con người tiếp tục bị dục vọng và giác quan dắt đi sai đường lạc nẻo mãi.

Các triết lý xuất hiện trên đời thì nhằm để phục vụ con người và hạnh phúc con người. Nhưng con người tư duy thì dẫn đến sai lầm, khổ đau. Phương Tây bằng các tri thức về cuộc đời đến từ tư duy, các nhà triết học luôn luôn đi tìm chân lý của lý trí. Phương Đông chú trọng đến nhu cầu chứng ngộ chân lý. Trong luận án Tiến sĩ Phật học về lý thuyết Nhân tính, Thượng Toạ Chơn Thiện đã chứng minh vấn đề này qua phần: “Cá nhân và các giá trị con người”. Ở đây, người viết xin được trình bày con đường tư duy của Aristote-một triết gia Hy lạp. Ông là người đầu tiên khẳng định vị trí và tầm quan trọng của việc nghiên cứu tâm lý học qua tác phẩm: “Bàn về tâm hồn”. Tác phẩm tâm lý học đầu tiên của lịch sử khoa học tâm lý. Theo Aristote, có ba nguyên lý cơ bản tư duy:

a. Nguyên lý đồng nhất: Một vật gọi là (A) thì luôn luôn phải là (A).  Nếu tên gọi thay đổi từng lúc thì tư duy của con người không thể vận hành.

b. Nguyên lý không mâu thuẩn:  Một vật gọi là (A) thì có thể gọi là (A) hoặc (¹A) nhưng không thể khi thì gọi là (A), khi thì gọi là (¹ A).  Nếu nó thường được thay đổi tên gọi, thì tư duy của con người không thể hoạt động.

c. Nguyên lý triệt tam: Một vật có thể khi này được gọi là (A), và khi khác được gọi là (B), nhưng không được gọi vừa (A) vừa (B), hay một nữa (A) và một nữa (B). Nếu nó là vừa (A) vừa (B) thì tư duy con người cũng không thể hoạt động được.

Ba nguyên lý trên là cơ sở cho logic học hình thức. Ba nguyên lý này giả định rằng mọi hiện hữu đều có ngã tính cố định, trong khi trong đời sống thật thì mọi hiện hữu thay đổi từng sát na.

Triết học Marx với quan điểm vận hành, vật chất luôn luôn vận động và biến đổi đã giúp cho sự ra đời logic học biện chứng là logic học bổ sung cho logic học hình thức.

Tuy vậy chính lối tư duy hữu ngã ấy đã sản sinh ra các sản phẩm tri thức cho nhân loại, cũng từ lối tư duy đó đã sinh ra hàng loạt những quan niệm xấu đẹp, ưa ghét, thân thù...và tâm lý con người tiếp tục phản ứng trên những ý niệm đó.  Đúng hơn, con người sống và làm việc với những ảo ảnh và phản ứng đối với ảo ảnh.  Với tâm lý học phổ thông, tư duy tìm ra bản chất của sự vật qua hiện tượng của sự vật mà hiện tượng của của sự vật thì được phản ánh vào não chúng ta qua cảm giác và tri giác. Từ đó mà có các hiện tâm lý: Vui, buồn, giận hờn.... rồi phản ứng đến đối tượng. Đối tượng được phản ánh bằng cảm giác và tri giác đã sai, nên các rối loạn tư tưởng tất nhiên phải có hoặc phản ánh đối tượng có đúng đi nữa thì sự tổng hợp, đánh giá của tư duy cũng bị sai lệch sự.

Do thấy rõ tà kiến và tà tư duy y, Đức Pht dy giáo lý duyên k hi ch rõ rng tư duy con người là chi phn Hành (Activities-sankhàra) ca duyên khi, hay hành un ca năm th un hoặc ca Danh sc. Nó là thuc s vn hành ca vô minh dn đến kh đau.  Như thế, các giá tr chân tht ca các hin hu ch hin hu trong s vn hành ca trí tu  (minh kiến)  hay trong cái nhìn trí tu ca con người”  

Những thành phần của tâm và thân (ngũ uẩn) nằm trong chuỗi nhân duyên nằm trong định luận nhân quả, không ngừng sanh trụ, dị, diệt, nhanh chóng đến độ không thể nào quan niệm. Quả thật, kiếp sống, của con người không khác nào dòng suối trên núi cao, dồn dập tuôn xuống không ngừng biến chuyển - Một dòng nước luân lưu bất tận của sự vận hành của sự kết hợp giữa tâm lý và vật lý.

Kinh Tạp A Hàm I Đức Phật giải thích rất rõ vấn đề này:

Sắc, Th, Tưởng, Hành, Thức là vô thường, vô ngã và bt lun gì là nhân và duyên làm cho ngũ un phát sanh thì chúng cũng đu là vô thường, vô ngã. Làm sao mà ngũ un vn phát sanh t nhng gì vô thường, vô ngã, li là thường còn và hu ngã được?

Do đó, muốn thấy rõ vạn pháp đúng như thật, phải từ bỏ ý niệm về một bản ngã. Con người trong thế gian này dường như đã ghi nhận bản chất vô thường của đời sống:

“Thế gian biến cải vũng nên đồi
Mặn, nhạt, chua, cay, lẫn, ngọt bùi “..
.(NBK)

“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
(N.D)


Mặc dù đã thấy sự vô thường, đã khổ đau, nhưng con người tiếp tục chạy theo vòng tư duy và dục vọng sinh ra từ tư duy ấy để rồi tiếp tục khổ. Con người vẫn cứ hy vọng, cứ tin tưởng rằng trên thế gian dù là bấp bênh, vô định, vẫn có thể được làm cho vững bền và cứ tiếp tục cuộc tranh đấu vô hiệu quả? Vì sao? Vì con người có ghi nhận bản chất vô thường của đời sống nhưng thật là khó khăn để chấp nhạn vạn pháp vô ngã, thân ngũ uẩn này là vô ngã. Muốn diệt khổ phải chấm dứt những quan niẹm sai lầm ấy.  Cái ảo tưởng ngủ ngầm “Ta” và  “Của ta” thật đã ăn sâu vào nếp nghĩ của con người đẩy đưa con người đến các dục vọng, sân hận...thất vọng, sợ hãi và khổ đau. 

Vô thường, vô ngã là đặc tính chính yếu của các hiện tượng sinh tồn, chúng ta không thể nói đến vật gì, dù vô tri vô giác hay hữu tri hữu giác rằng “cái này tồn ti” , bởi vì khi ta thốt ra lời nói trên thì nó đã đổi thay rồi.  Ngũ uẩn luôn luôn bị định luật Nhân & Quả  chi phối. Do vậy Thức hay Tâm và các thành phần của tâm, không  ngừng biến chuyển.  Kinh Tạm A Hàm nói rằng:

"Người thy rõ ràng các un vô thường, là có Chánh Kiến"

2.  Giới hn ca các giác quan trong quá trình nhn thc:

Bên cạnh hạn chế của tư duy hữu ngã, tri thức của con người, một sự hiểu biết thế giới bên gnoa2i cũng không thuộc về thực ngã của con người bởi là một sự tổng hợp các nguồn thông tin từ các giác quan đem lại. Tâm lý học phổ thông nghiên cứu các hiện tượng tâm lý chủ yếu bằng các phương pháp quan sát và thực nghiệm những biểu hiện bên ngoài của tâm lý bên trong thôgn qua các giác quan. Trong khi đó, các giác quan không phải là nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy. Điển hình là phương pháp quan sát:

- Theo tâm lý học phổ thông, quan sát là tri giác những hành vi, cử chỉ, những biểu  hiện, những hành động, hoạt động của đối tượng trong điều kiện tự nhiên để phán đoán, nhận xét về tâm lý của đối tượng,  từ đó rút ra qui luật và cơ chế của chúng ta. Và phương pháp này không tránh khỏi nhữnng sai lầm do giác quan đem lại. Ví dụ như đối với cơ quan thị giác: Cảm giác nhình nảy sinh do sự tác động của các sóng ánh sáng phát ra hoặc phản xạ từ các vật.  Cơ sở giải phẫu sinh lý của cảm giác nhìn là cơ quan phân tích thị giác. Cảm giác nhìn có vai trò cơ bản trong sự nhận thức thế giới bên ngoài của con người. Nhiều tài liệu hiện nay cho thấy khoảng 80% lượng thông tin từ bên ngoài đi vào não là qua mắt. Nhưng nếu con mắt bị bệnh, hay thần kinh thị giác bị yếu thì không thể nhìn thấy sự vật tốt được. Hơn nữa thế giới chung quanh ta với tất cả vật thể mà mắt ta đưa lại cho con người với những hình dáng, kích thước, màu sắc như hiện nay là do con mắt có hình cầu lồi, nhưng nếu không phải là hình cầu lồi mà mắt mang một hình dáng khác thì sự vật sẽ không phải là những hình dáng và màu sắc như ta đang thấy. Cái thế giới được phản ánh lên vỏ não qua mắt chỉ có giá trị tương đối. Đúng như Lê Nin đã nhận định: “Tâm lý là hình ảnh ch quan ca thế giói khách quan”Con người thường quan sát sự vật với định kiến hoặc kinh nghiệm của mình.

- Với cơ quan thính giác: Lỗ tai là cơ quan cảm giác phản ánh những thuộc tính âm thanh của đối tượng.  Cảm giác này do những dao động không khí gây nên.  Nhưng thật sự thế giới âm thanh không phải chỉ như con người đang nghe thấy được, mà thật ra đã bị giới hạn bởi màng nhĩ mỗi người không ai giống cả. Có những âm thanh chó cảm nhận được nhưng người không nghe thấy một tí gì. Tai của một nhạc công có thể phân biệt được nhiều mức độ âm thanh cao thấp khác nhau trong cùng một cung. Hoặc nếu kích thích một âm thanh quá mạnh cũng gây nên hiện tượng mất cảm giác (nhưng sóng siêu âm tác động vào tai ta) còn như kích thích yếu quá sẽ không tạo nên cảm giác gì cả (như hạt bụi rơi trên cánh tay ta, ta chẳng có cảm giác gì, nhưng thật ra vẫn có sự tác động của hạt bụi vào tay)

Như vậy, muốn tạo nên một cảm giác, kích thích tác động phải đạt tới một giới hạn nhất định. Giới hạn này tâm lý học phổ thông gọi là ngưỡng cảm giác. Bên cạnh giới hạn của ngưỡng cảm giác, tâm lý người còn chịu sự chi phối của quy luật tương phản của cảm giác. Đó là sự thay đổi của cường độ hoặc chất lượng của cảm giác dưới ảnh hưởng của một kích thích cùng loại xảy ra trước đó hoặc đồng thời.

Ví dụ:  Phấn viết trên bảng đen mới có vẻ trắng hơn, rõ hơn là viết trên bảng đen cũ, (tương phản đồng thời).  Hoặc sau khi cầm một cục nước đá, cho tay vào nước ấm sẽ cảm thấy nước nóng hơn lúc bình thường (tương phản nối tiếp)

- Ở những người khuyết tật (mất 1 hoặc 2 giác quan nào đó), các giác quan còn lại sẽ tinh nhạy hơn người bình thường.  Ví dụ ở người mù, cảm giác nghe hay cảm giác sờ mó có thể tinh nhạy hơn người không bị khuyết tật. 

Qua kết quả phẫu thuật, người ta thấy những vi thể Passni (giúp cho việc tạo nên cảm giác sờ mó) trên da ở đầu ngón tay trỏ của người bình thường có khoảng 186 vi thể, ở người mù có tới 270 vi thể, ở người mù lâu năm lên đến 311 vi thể.

Như vậy, cấu trúc của các bộ máy phân tích không phải là bất biến, mà nó có biến đổi để thích ứng với sự thực hiện tốt nhất chức năng của mình. Năng lực cảm giác của con người phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của người ấy. 

- Các thông tin phản ánh thế giới khách quan vốn đã bị sai lầm do các giác quan đưa lại, sự tổng hợp đánh giá chúng lại do tư duy hữu ngã thực hiện nên các tri thức, kiến thức mà con người xem là tự ngã của mình rất xa vời chân lý. Tâm lý học phổ thông cũng công nhận những phản ánh sai lệch của các sự vật, hiện tượng một cách khách quan của con người do những ảo ảnh tri giác do sinh lý, tâm lý, vật lý.  Trong những hoàn cảnh điều kiện khác nhau do khoảng cách, sự chiếu ánh sáng hoặc những điều kiện xuất hiện khác của chúng như góc độ tác động vào người tri giác, sự tác động của các vật đối với nó (ví dụ như bị che lấp..) thì con người vẫn có khả năng cảm giác, tri giác sự vật xung quanh như là những sự vật ổn định về hình dáng kích thước, màu sắc....Đó là tính ổn định của tri giác.  Đặc tính này là khả năng phản ánh sự vật một cách không thay đổi khi điều kiện tri giác bị thay đổi. 

Ví dụ:  Trước mắt ta là một em bé, đằng sau nó là một người lớn trên võng mạc ta, hình dáng của đứa bé lớn hơn hình dáng của người lớn nhưng ta vẫn tri giác người lớn hơn đứa bé.

Tính ổn định của tri giác phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm để có thể thấy cả hình dáng màu sắc và kích thước của sự vật.  Bên cạnh tính ổn định của tri giác, tâm lý học phổ thông cũng cho ta thấy rằng ảo ảnh tri giác là sự phản ánh sai lệch các sự vật hiện tượng một cách khách quan của con người.  Đây là một hiện tượng có qui luật xảy ra ở tất cả mọi người bình thường.  Hiện tượng ảo ảnh tri giác có ở tất cả các loại tri giác.  Ví dụ như tri giác không gian.  

Trong hình a, 2 đoạn a và b bằng nhau nhưng ta thấy b>a

Trong hình b, ta thấy chiếc que bị gãy

Trong hình c: Xem ra đoạn CD> CD nhưng thực ra CD = AB

Trong hình d, hai đường thẳng ở giữa song song, khi tri giác dễ thấy rằng chúng cong ở giữa.

Mỗi một ảo ảnh tri giác đều có một nguyên nhân cụ thể thể khác nhau, nhưng nhìn chung có thể thấy có 3 loại nguyên nhân gây ra ảo ảnh tri giác đó là:

- Nguyên nhân vật lý, nguyên nhân sinh lý, nguyên tâm lý.

- Theo quan điểm của tâm lý học Macxít: Tâm lý người phản ánh hiện thực khách quan lên vỏ não, nhưng với một hệ thần kinh không hoàn hảo có “vấn đề” thì cái hiện thực khách quan đó chắc chắn đã sai lệch rất nhiều.

Trong quá trình nghiên cứu, trắc đạt tâm lý người, khoa học phải chấp nhận những giới hạn nhất định đó.  Cùng với cái tư duy hữu ngã- cái tư duy bắt mọi vật đứng yên trong khi vạn pháp biến chuyển theo từng sát na khiến con người dễ rơi vào những ảo kiến sai lầm do không thấy được thật vạn pháp.
 
III.  Các cấp đ nhn thc trong tâm lý hc ph thông và tâm lý học Pht giáo  

1. Hoạt đng nhn thc ca tâm lý hc ph thông

Các sự kiện tâm lý của con người mà tâm lý học phổ thông gọi là hoạt động nhận thức của cá nhân bao gồm: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng...

Hoạt động nhận thức là cơ sở của mọi hoạt động tâm lý con người. Trong cuộc sống con người luôn luôn nhận thức sự vật hiện tượng xung quanh mình, đồng thời con người cũng tự nhận thức hiện tượng bản thân mình. Có thể nhận thức từ hiện tượng cụ thể bên ngoài cho đến cái bản chất qui luật bên trong của sự vật. Nhận thức là một hoạt động tâm lý rất phức tạp, đa dạng và ở nhiều mức độ khác nhau. Tâm lý học phổ thông chia hoạt động nhận thức thành 2 giai đoạn lớn: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Mỗi giai đoạn đó gồm những quá trình nhận thức ở mức độ khác nhau.

a.  Nhận thc cm tính Đây là gia đoạn thấp của hoạt động nhận thức. Giai đoạn này bao gồm 2 quá trình: cảm giác và tri giác.

Cảm giác: Là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ về bề ngoài của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan, khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan của ta “Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của cơ thể trong thế giới chung quanh”. Mặc dù cảm giác chỉ là cấp độ thấp nhất trong quá trình nhận thức nhưng nó giữ một vai trò quan trọng trong đời sống.  Trong hoạt động nhận thức, cảm giác thu nhân nguồn tài liệu phong phú, nhờ đó, con người mới có những quá trình nhân thức cao hơn Lê Nin đã viết “Cảm giác là những viên gạch đầu tiên để xây dựng nên toà lâu đài nhận thức”  

· Tri giác Là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng, dưới hình thức hiện tượng, khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan của ta.

Tri giác phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm, nhờ có kinh nghiệm con người nhận rõ ngay toàn bộ sự vật một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Nhưng nếu kinh nghiệm không chính xác thì tri giác con người sẽ phạm sai lầm. Đó là cơ sở của những thành kiến, định kiến của con người ảnh hưởng trên đối tượng. Tri giác là một quá trình nhận thức cao hơn, phức tạp hơn cảm giác nhưng tri giác phản ánh sự vật hiện tượng một cách toàn vẹn và rõ ràng hơn cảm giác.

b.  Nhân thức lý tính:  Bao gồm 2 quá trình chủ yếu: Tư duy và tưởng tượng.

· duy: Là một mức độ nhận thức thức cao hơn cảm giác và tri giác. Đối là một quá trình phản ánh những thuộc tính bản chất, những liên hệ và quan hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan.

Ví dụ: Đứng trước một người, cảm giác và giác tri cho ta biết hình dáng, nét mặt, cử chỉ, lời nói...Còn nói tư duy có thể cho biết những cái bên trong như đạo đức, tài năng, tư tưởng, tình cảm, lập trường quan điểm... Tư duy phản ánh cái chưa biết tức là phản ánh ái mới giúp con người giải quyết những nhiệm vụ mà đời sống xã hội đề ra.

Cảm giá, tri giác và quá trình tư duy là những mức độ nhận thức rất khác nhau, nhưng không thể tách rời nhau. Quá trình tư duy dựa trên cơ sở tài liệu của cảm giác và tri giác. Nhận thức cảm tính là nguồn cung cấp “nguyên liệu” cho tư duy “Tất c các hiu biết bt ngun t kinh nghim, t cảm giác, tri giác

· Tưởng tương:  Là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sỡ những biểu hiện đã có. Tưởng tượng có liên quan mật thiết với mọi hoạt động của con người.  Tưởng tương rất cần thiết cho hoạt động nhận thức. Lê Nin đã viết:

Thật sai lm nếu nghĩ rng ch có nhà thơ mi cn có tưởng tượng.  Đó là mt đnh kiến ngu xun!  Ngay c trong toán hc cũng cn có tưởng tượng.  Không có nó thì không thể tìm ra phép tính vi phân và tích phân được”.  

2.  Các cấp đ nhn thc trong tâm lý hc Pht giáo.

Trong bài Kinh Pháp môn căn bản (Trung bộ I).  Đức Thế Tôn đã tự thuyết giảng cho các Tỳ kheo về các cấp độ nhận thức của con người, đó cũng chính là “Pháp môn căn bản tất cả Pháp”

* Tưởng tri (sanjànàti) = recognises
* Thức tri (vijànàti) = is aware of
* Tư duy, nghĩ đến (mannati) = thinks of
* Thắng tri (abhijànàti) = understands thoroughtly
* Liễu tri (parijànàti) = knows intuitively


a. Tưởng tri (sanjànàti):

Là hoạt động của một cái tâm thuần tuý về các kinh nghiệm về hình ảnh, mùi, vị...Đó là cái biết theo kinh nghiệm: Duy thức gọi là tạng thức chứa chủng tử với sắc trần (bên ngoài) và pháp trần (bên trong).  Những ảnh tượng để lại trong tâm gọi là pháp trần.

b. Thức tri (vijanàti)

Là cấp độ nhận biết của thức uẩn, ghi nhận sự có mặt của vạn pháp.  Thức tri là sự nhận biết khi có sự tiếp xúc giữa căn và trần.

c.  duy (mannati)

Đây là cấp độ là việc của tư tâm sở.  Vai trò của tư duy là: khi các căn tiếp xúc các trần, liền cho các ảnh tượng theo từng phương diện của sự vật, ghi nhận và đưa tin tức vào não bộ, sau đó là tư duy làm công việc tổng hợp (hành uẩn).  Khi các giác quan làm việc, điều có mặt kinh nghiệm của tưởng uẩn.  Công việc của tư duy là phân tích qua quy nạp; diễn dịch; tổng hợp; và đánh giá.

Duy thức pháp tướng thì trình bày có 8 thức: 5 thức đầu (tiền ngũ thức) ghi nhận cấp độ hoạt động của tưởng tri và thức tri.  Cấp độ lục thức (ý thức) là cấp độ của tư duy với sự có mặt na (yếu tố chấp ngã đưa chủng tử vào Alạida thức và đem chủng thử của Alạida ra 6 thức để khởi tác dụng).  Đến đây và ngang với cấp độ nhận thức của con người trong tâm lý học phổ thông (cảm giác, tri giác và tư duy).  Nghĩa là khi gặp  hoàn cảnh có vấn đề cần đáp ứng, giải quyết, thì con người phải dựa vào những điều đã cảm giác, tri giác được, dựa vào kinh nghiệm và tri thức vốn có của mình để suy nghĩ, đó là tư duy.  Như vậy cấp độ nhận thức của con người được tâm lý học phổ thông đề cập đó là tư duy.  Như vậy cấp độ nhận thức của con người được tâm lý học phổ thông đề cập đến chỉ thuộc lãnh vực kinh nghiệm.  Con người chỉ tư duy trên cơ sở của tâm thức do các giác quan đưa tới.  Cấp độ nhận thức của tâm lý học phổ thông chỉ ngang với cấp độ tưởng tri, thức tri và tư duy-Một sự hoạt động của thọ tưởng, hành, thức.  Do vậy, địa bàn hoạt động của nhận thức này bị chế ngự của vô minh.  Không tách rời với các nhận thức hữu ngã và các nguyên lý tư duy sai lầm do các quan niệm hữu ngã và các nguyên lý tư duy sai lầm do các quan niệm hữu ngã và sự lệch lạc của các giác quan đem lại.  Về cấp độ tư duy này Đức Phật nêu rõ:

Này các Tỳ kheo, đây có k phàm phu ít nghe, không được thy các bc Thánh, không thun thc pháp các bc Thánh, không tu tp pháp các bc Thánh, không thy được các bc chơn nhân, không tu tp các bc chơn nhân, tưởng tri đa là đa đi,  nghĩ đến (t ngã) đi chiếu vi đa đi, nghĩ đến (t ngã) như là đa đi, người y nghĩ: “Địa đi là ca ta”- dc h đa đi.  Vì sao vy? Ta nói người y không liu tri đa đi”  

Tương tự như vậy, con người tưởng tri, thức tri và tư duy với các đối tượng nhận thức như là:

(a)...thuỷ, hoả, phong, đại và các loài chúng sanh

(b)...các cảnh giới

(c)...sở văn, sở tri, sở kiến, sở tư, đồng nhất, sai biệt, Niết bàn.

Rõ ràng đây là cấp độ tư duy nhị nguyên do quan niệm hữu ngã đưa tới.  Vì thấy có ngã (địa đại) nên đối chiếu với địa đại, chấp ngã là địa đại.... Từ đó sinh ra các quan niệm phân biệt: Tốt, xấu, hạnh phúc, đau khổ, thương, ghét...Tất cả đều là sản phẩm của thọ, tưởng, hành, thức, của tư duy qua tài liệu thông tin được cung cấp từ các giác quan, mà các giác quan thì luôn bị hạn chế bởi các sai lầm.  Nhận thức của con người đối với mọi sự vật và hiện tượng, với thực tế cuộc sống chung quanh chỉ được nâng cao trên cơ sở trình độ phát triển của xã hội và qua quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài của con người.  Đối với tâm lý học phổ thông, tư duy là mức độ nhận thức cao hơn cảm giác và tri giác.  Sách tâm lý học của trường Đại học Sư phạm định nghĩa:

“Tư duy là phẩm chất trí tuệ giúp con người có thể bao quát được một phạm vi rộng lớn của thực tiễn tri thức và nắm được mối liên hệ của nhiều lĩnh vực. Người có phẩm chất này bao giờ cũng nhìn thấy rõ ràng cái cốt lõi, cái bản chất của vấn đề, có khả năng đi sâu vào đối tượng nhận thức để tìm ra cái mới.  Nhờ đó mà con người có thể thấy được những nguyên nhân sâu xa, những ý nghĩa đúng đắn, những nguyên nhân, hậu quả của vấn đề...” 

Quả là tâm lý học phổ thông đã đánh giá cao cấp độ tư duy của con người.  Nhưng đúng như Lê Nin đã nhận định: Tư duy bắt nguồn từ kinh nghiệm, từ cảm giác, tri giác.  Mà kinh nghiệm, cảm giác, tri giác của con người vốn dĩ hạn chế và sai lầm bởi các giác quan, bởi tư duy hữu ngã nên cái tư duy đó không thể thấy rõ sự thật như thật của vạn pháp.  Nó chỉ dừng lại ở cái biết của người không hiểu rõ chánh pháp, dẫn đến chấp thủ năm uẩn, dẫn đến vô minh và sầu, bi, khổ, ưu, não.

Qua lời dạy của Đức Phật, quá trình nhận thức của con người không dừng lại ở đây.  Đối với người biết tu tập  và huấn luyện tâm thức qua Thiền định thì nhận thức sẽ nâng lên ở cấp độ “Thắng tri” và “Liễu tri”.  Đó là cấp độ nhận thức đưa đến cái thấy trực giác, cái tri kiến về sự thật của sự vật, từ đó tâm thức rời khởi dục vọng, sân hận, và các nhận thức sai lầm, rồi đi ra khỏi khổ đau.

d) Thắng tri (Abhijànàti)

Thắng tri là cái biết qua tu tập Thiền định.  Các bậc tu chứng từ sơ thiền đến tứ thiền sẽ có được cái biết “Thắng tri”. Đó là cái biết trực giác về sự vật; các sự chi phối, các tâm lý ngăn che trí tuệ của hành giả đã được khắc phục.  Sự can thiệp của tư duy nhị nguyên và ngũ triền cái đã bị loại.  Nhờ vậy nhận thức của hành giả được nâng lên một bước cao và sâu hơn, nhìn được sự vật với chánh tri kiến nên tiếp cận được với chân lý.  Hành giả sẽ hiểu sâu hơn thật tướng của các pháp.  Với tâm khinh an, định tĩnh và trí tuệ sáng suốt do thấm nhuần hương vị giải thoát của Thiền, vị ấy thấy được dòng duyên khởi của sự vật.  Con người cũng là một dòng trôi chảy của các duyên.  Thắng tri thì tương đương với trực giác của tâm lý học phổ thông, mà các nhà tâm lý đã xem như là: Hiện tượng sáng.

- “Hiện tượng vụt sáng là sự xuất hiện những ý tưởng bất ngờ, không có sự chuẩn bị trước.  Chúng có ý nghĩa rất lớn trong lĩnh vực sáng tạo”  

Như trường hợp của nhá bác học Newton nhìn quả táo rơi mà phát hiện định luật sức hút của trái đất.  Cái trí tuệ bừng sáng ấy xem như một sự mở nguồn sáng tạo.  Tâm lý học phổ thông cho rằng cấp độ nhận thức trực giác đầy tính sáng tạo ấy không thể giáo dục hay huấn luyện được.  Đối với tâm lý học Phật Giáo thì thắng tri là cấp độ nhận thức của các bậc “tu hành thành mãn” hoặc đang “cần cầu vô thượng an ổn thoát khỏi khổ ách”.  Tuy vậy, ở cấp độ thắng tri này, hành giả vẫn còn bị ngăn che, bị ràng buộc bởi các cảm thọ (thọ uẩn), các kiết sử.  Chỉ đến khi nào các cảm thọ bị đốt cháy, hành giả nhiếp phục được sự chi phối của năm uẩn hoàn toàn thì sẽ đạt được cái thấy biết tối thắng là Liễu tri.

Về cấp độ nhận thức thắng tri, Đức Phật dạy: 

“Này các Tỷ kheo, có Tỷ kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cấu vô thượng an ổn, khỏi khổ ách, vị ấy thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: “Địa đại là của ta” - không dục hỷ địa đại.  Vì sao vậy?  Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại...thuỷ đại...hoả đại...phong đại...sanh vật...chư Thiên sanh chủ...Phạm thiên....Quang Âm Thiên...Biến Tịnh Thiên...Quả Quả Thiên...Abhibhù (Thắng giả) ...Không vô biên xứ....sở kiến.....sở văn....sở tư niệm....sở tri...đồng nhất....sai biệt...tất cả....Vị ấy thắng tri Niết bàn là Niết bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết bàn, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết bàn, đã không nghĩ (tự ngã) như là Niết bàn, đã không dục hỷ Niết bàn.  Vì sao vậy?  Ta nói vị ấy có thể liễu tri Niết bàn.”

e) Liễu tri (Parijànàti):

Nếu cấp độ của Thắng tri là cấp độ của tâm giải thoát thì cấp đô của liễu tri là cấp độ của tuệ giải thoát.  Đó là cái thấy biết vạn pháp như thật với trí tuệ viên mãn hoàn toàn.  Với bất cứ đối tượng nào cũng không còn một quan niệm gì về tự ngã.  Đó cũng là  cái thấy biết sáng suốt.  Điều đó không phải là cái gì “kỳ bí’ dẫn dắt chúng ta vào “thế giới tâm linh” xa xôi nào, ở đây chỉ đề cập đến lĩnh vực hình thức hoạt động của tư duy (của các nhóm tâm lý) trong quá trình hình thành nhận thức:  phản ánh đúng thế giới hiện thực, cho nên nội dung không có cái gì khác ngoài bản chất của hiện thực.  Các Kinh Phật thường gọi là “thật tướng” hay “thể tánh” thể hiện viên mãn sự vật đúng như (yathàbhùtam) đứng về mặt nghiên cứu (việc áp dụng tương đối vào cuộc sống thế tục) thì liễu tri thuộc về tuệ uẩn, và nội dung của nó là chánh kiến và chánh tư duy trong Bát chánh đạo.

Trong thực tế, con người có chánh tri kiến (thuộc nhận thức luận Phật giáo) là có được một tri kiến kết tinh từ quá trình nhận thức của con người, phản ánh thế giới hiện thực theo đúng quy luật vận động và biến đổi của sự vật.  Quan hoạt động của các hình thức tâm lý thích hợp-từ nhận thức “tuỳ giác”, còn hời hợt bên ngoài, tiến đến trình độ nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn, “thể nhập” vào bản chất của sự vật.  Đức Phật đã nói về con đường giác ngộ của mình-con đường “kiến tánh” là : “Mắt đã sinh, kiến đã sinh, tuệ đã sinh, minh đã sinh, ánh sáng đã sinh” đó là một quá trình nhận thức đi từ cảm tính đến lý tính, từ cụ thể đến thực chất.

Chánh tư duy có nghĩa là nếp suy nghĩ phản ánh đúng đắn những căn nguyên về sự tồn tại và biến đổi của sự vật, bao gồm hai phương pháp thể hiện hai mặt hiện thực. Theo các danh từ triết học thông dụng ngày nay đó là:

- Phương pháp tư duy logic phản ánh chân thực hiện tại.

- Phương pháp tư duy biện chứng là phương pháp tư duy phù hợp với quy luật vận động của thế giới hiện thực.

Chánh tư duy là từng bước thâm nhập vào thế giới hiện thực, đi đến nắm bắt chân lý.

Cái trí tuệ viên mãn này (liễu tri) thật ra là có tất cả ở mọi người từ những kẻ phàm phu cho đến các bậc Hiền Thánh.  Do sự ngăn che bởi các cảm thọ mà sự thấy biết vạn pháp đúng như thật bị che khuất.  Yếu tố chi phối cái tư duy con người không chỉ do bên ngoài hay bên trong mà thực sự còn do một yếu tố xa hơn nữa đã can thiệp mạnh mẽ vào đối tượng: đó là tập khí nghiệp hay còn gọi là tập quán của văn  hoá hữu ngã.

Theo sự giảng giải của Đức Phật, A La Hán là các bậc tu hành thành mãn đã đạt chánh trí giải thoát với bốn trường hợp sau:

- Trường hợp 1: “Này các Tỷ kheo, có T kheo là bc A La Hán, các lu hoc đã lu, tu hành thành mãn, các vic nên làm đã làm, đã đt gánh nng xung, đã thành đt lý tưởng, đã tn tr hu kiết s, chánh trí gii thoát....Ta nói vy đã liu tri Niết bàn

- Trường hợp 2: ....Đã tn tr hu kiết s, đã chánh trí gii thoát.  Thng tri vì đã đon tr tham dc.

Trường hợp 3: ....Thắng tri và đã đon tr sân hn.

- Trường hợp 4: ....Thắng tri và đã đon tr si mê.

Với Như Lai là bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác thì cái thấy biết của Ngài là Thắng tri và Liễu tri với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sư ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự trừ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Tóm lại: - Cấp độ nhận thức thuộc về tưởng tri, thức tri và tư duy thuộc hữu ngã và thuộc giới hạn của tin tức nhận được từ các quan năng.  Cái biết hữu ngã đến từ phạm trù của sáu căn, sáu trần vá sáu thức.  Tư duy hữu ngã đưa đến các giá trị văn hoá của con người.  Cấp độ nhận thức này bị vô minh chi phối nên dẫn con người đến khổ đau, sinh tử luân hồi. 

- Cấp độ thắng tri: Thông qua thiền chỉ, thiền quán, cho ta sự trực giác về sự thật của mọi hiện hữu.

- Cấp độ liễu tri: Qua thiền định và trí tuệ vô ngã mà nhận biết như thật mọi hiện hữu.  Đây là tri kiến giải thoát, ra khỏi mọi khổ đau và luân hồi sinh tử.  

PHẦN BA


SẮC THÁI TÂM LÝ HC QUA CÁC YU T CU HP THÀNH PHN TÂM LINH 

Ngành tâm lý học đã khám phá những khả năng tiềm tàng trong tâm thức con người và chính con người phải nỗ lực trau dồi và khai triển những tiềm năng ấy.  Chính sự nghiên cứu về tâm thức có thể giúp chúng ta dễ dàng bước vào thiền tập để sớm có hiệu quả về một cuộc sống an lạc với nội tâm trong sáng và minh mẫn nhất.

Điều cần thiết là phải có một ý niệm rõ ràng về ngũ uẩn.  Theo ngôn ngữ thông thường chúng ta nói một “chúng sanh” nhưng trong ý nghĩa cùng tột “chúng sanh” chỉ là biểu hiện của những năng lực tâm lý - vật lý không ngừng biến chuyển.  Đó là ngũ uẩn.

Theo Phật giáo, con người là một sự phối hợp tâm lý- vật lý của tâm và thân.  (Danh-sắc).  Phần vật chất (sắc) là cơ thể vật chất của con người.  Theo A Tỳ Đàm: Sắc do 4 đại chủng tạo nên bao gồm 28 sắc pháp (đã nêu ở phần II).  Giờ đây sẽ thảo luận về bốn uẩn: thọ, tưởng hành, thức vốn cấu hợp thành phần tâm linh.

1) Thọ (Vedadanà): Đây là thành phần cảm giác đi chung với ấn tượng và ý nghĩ của chúng ta.  Từ đây đủ cảm thọ (sensation).  Thọ có ba: thọ lạc, thọ khổ, và thọ vô ký (không khổ hổ không lạc).  Thọ phát sanh tuỳ thuộc nơi xúc (sự tiếp xúc của các giác quan và trần cảnh).  Thấy một vật thể, nghe một âm thanh, ngửi một mùi, nếm một vị, sờ đụng một vật, nhận thức một đối tượng của tâm (ý nghĩ hay tư tưởng): từ đó con người kinh nghiệm một loại thọ.

Đức Phật dạy:

Và này các tỳ kheo, thế nào là thọ? Đây là sáu nơi cm th: Cm th được t s xúc tiếp ca mt, cm th phát sinh t s xúc tiếp ca tai,...ca mũi,...ca lưỡi,....ca thân,.....và cm th phát sinh t s xúc tiếp ca ý.  Này các T kheo, đó gi là th.

(Ý ở đây là nhận thức của tâm được xem là khả năng thứ sáu trong tâm lý học Phật giáo).  Xúc có nghĩa là sự phối hợp giữa: giác quan, đối tượng của giác quan và ý thức.  Thí dụ như: mắt, đối tượng của mắt là nhãn thức.  Sự hợp chung này gọi là xúc.  Khi có xúc, thọ đương nhiên phát sanh mà không có năng lực nào có thể cản ngăn.

Trong tâm lý học phổ thông, khi một hiện tượng trong hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác quan thì hoạt động nhận thức đầu tiên của con người là cảm giác mức độ thấp nhất trong một quá trình nhận thức.  “Cảm giác là hình thc đnh hướng đu tiên ca cơ th trong thế gii xung quanh”, “Cảm giác là s chuyn hoá năng lượng ca kích thích bên ngoài thành s kin ý thc”  

Như vậy cảm thọ trong tâm lý học Phật giáo không giống với cảm giác trong tâm lý học phổ thông.  Cảm giác xuất hiện sau xúc (contact). Xúc là hiện tượng tâm lý trong năm tâm sở biến hành của duy thức học (xúc, tác ý, thọ tưởng, tư)(mental formations) vì xúc là sự xúc chạm giữa thân và cảnh vật, tâm và cảnh vật, tâm và tâm. Nếu không có xúc thì không có nhận thức.  Như mắt không nhìn thấy vật sẽ không có một cảm giác hay tri giác về vật.  Phật giáo dùng từ xúc với hai nghĩa:

- Xúc trong hợp từ xúc trần – là một trong sáu trần, tức là đối tượng của xúc giác (touch organ) như trơn nhám nóng lạnh.

- Xúc với nghĩa là xúc giác còn gọi là thân xúc.

Tâm lý học phổ thông hay dùng từ cảm xúc tức là kết hợp xúc với thọ, thật ra có xúc rồi mới có cảm thọ.

Như vậy, xuất hiện sau giai đoạn “xúc”, tâm lý học Phật giáo đưa ra khái niệm Thọ mang một ý nghĩa cao hơn, sâu sắc hơn so với cảm giác trong tâm lý học phổ thông.  Bởi vì theo định nghĩa thì cảm giác chỉ là một quá trình tâm lý phản ánh thuộc tính riêng lẻ thuộc về bề ngoài của sự vật, phản ánh màu sắc, đường nét, hình dáng của sự vật, nhưng chưa thật rõ về thuộc tính đó.  Cảm giác nhấn mạnh yếu tố khách quan: sự hiểu biết sơ lược về đối tượng (= thức)

Cảm thọ nhấn mạnh yếu tố chủ quan: con người có những cảm thọ gì sau khi sáu căn tiếp xúc sáu trần. (đã có sự hoạt động của ý thức)

- “Vị ngọt” của cảm thọ làm cho dục vọng khởi lên trong tâm con người và khiến con người dong ruổi theo các lạc thú ở đời.  Sự hiện hữu của cảm thọ chính là sự hiện hữu của vô minh hay của tư duy hữu ngã và đưa đến khổ đau.

Tâm lý học Phật giáo giới thiệu sáu loại xúc:  Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.  Tâm lý học phổ thông chỉ đưa ra 5 loại cảm giác: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác.  Có thể so sánh qua sự liệt kê sau đây:

* Thị giác (cảm giác nhìn): Là cảm giác phản ánh những thuộc tính về ánh sáng, màu sắc, hình thù, kích thước, khối lượng, độ xa của sự vật.  Cảm giác nhìn nảy sinh do sự tác động của các sóng ánh sáng phát ra hoặc phản xạ từ các vật.

Nhãn xúc:  Là sự phối hợp giữa giác quan (mắt), đối tượng của giác quan (sự vật) và ý thức.  Khi có xúc, thọ đương nhiên phát sanh: lạc khổ hay vô ký.

* Thính giác (cảm giác nghe): là cảm giác phản ánh những thuộc tính về âm thanh của đối tượng.  Cảm giác này do những dao động không khí gây nên.  Cơ sở giải phẩu sinh lý là bộ phận phân tích thính giác.

· Nhĩ xúc: Sự phối hợp giữa giác quan (tai), đối tượng của giác quan (âm thanh_và ý thức).  Từ đó thọ phát sanh.

* Khứu giác (cảm giác ngửi): Là cảm giác phản ánh mùi của đối tượng.  Ta ngửi thấy mùi của vật là do các phần tử của các chất hay hơi tác động lên màng ngoài của khoang mũi gây nên.

· Tỷ xúc sự phối hợp giữa giác quan (i), đối tượng của giác quan (mùi) và ý thức.  Từ đó thọ phát sanh.

· Vị giác (cảm giác nếm): Phản ánh vị đối tượng.  Cảm giác này do sự tác động Của các thuộc tính hoá học của những chất hoà tan trong nước lên các cơ quan thụ cảm ở lưỡi gây ra..

·Thiệt xúc:  Sự phối hợp giữa giác quan (lưỡi), đối tượng của giác quan (vị) và Ý  thức.  Từ đó cảm thọ phát sanh

* Xúc giác (cảm giác da): phản ánh những thuộc tính về nhiệt độ, áp lực, sự đụng chạm, sự trơn nhẵn của đối tượng.  Cảm giác này do những kích thích cơ hoặc nhiệt gây nên.

Thân xúc: Sự phối hợp giữa thân, đối tượng của thân (sự đụng chạm trơn; nhẵn hay xù xì, nóng hay lạnh ...) và ý thức: đứa đến cho thân “vị ngọt” hay sự nguy hiểm.

Như vậy, khi có xúc tất nhiên có cảm giác, có cảm thọ mà không năng lực nào có thể cản ngăn .  Cảm thọ làm dục vọng sanh khởi, không có cảm thọ, dục vọng sẽ không có cơ sở tồn tại và sẽ đi đến đoạn diệt.

Nếu một người, qua s thc hành thin quán lãnh hi được s vn hành này thì hn người y s đi tìm kiếm trí tu thay vì tìm kiếm “v ngt” ca các cnh th 

Người có trí tuệ phải liễu tri cảm thọ.  Trong kinh Đại Khổ uẩn có đoạn viết về các Tỳ kheo tường trình về sự cật vấn của các ngoại đạo rằng có gì sai biệt giữa chúng và Thế Tôn khi cả hai cùng nói về sự liễu trị các dục, các sắc và các cảm thọ.  Đức Phật giải thích rằng tuy ngoại đạo cũng có nói về sự liễu tri các dục, các sắc, các cảm thọ nhưng họ không biết được vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly đối với các pháp ấy. “Do xúc sinh mà thọ sinh, do xúc dit mà th dit.  Đây là Bát Thánh đo đưa đến chm dt cm th, đó là: Chánh Kiến, Chánh tư duy, chánh ng, chánh nghip, chánh tinh tn, chánh mng, chánh đnh”. Người tu không để cảm thọ lôi kéo mình, phải biết rõ nó để chuyển hoá nó.

2) Tưởng (Sannà) : So sánh với tâm lý học phổ thông, có thể xem tưởng uẩn là cấp độ nhận thức của tri giác.  Chức năng tri giác trong tâm lý học Phật giáo là nhận ra đối tượng: đối tượng vật lý và đối tượng tâm linh.  Cũng như thọ, tưởng có sáu: tri giác, hình thể, âm thanh, mùi vị và xúc chạm, vật lý hay tinh thần.  Những hình thức tri giác siêu giác quan như thần giao cách cảm hay thiên nhãn thông cũng được bao hàm trong tưởng uẩn.  Tâm lý học phổ thông cho rằng tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh  trọn vẹn và hoàn chỉnh sự vật.  Tính biết trọn vẹn là do sự tham gia của kinh nghiệm và sự hiểu biết.  Nhờ đó ta tri giác sự vật rất nhanh mặc dù mới thoáng nhìn qua sự vật hoặc một vài bộ phận của sự vật bị che lấp.  Kinh nghiệm không chính xác thì tri giác con người sẽ bi6 phạm sai lầm.  Có một sự giống nhau tế nhị giữa hay biết (vĩjnnà) vốn là chức năng của thức và nhận ra (tưởng) -chức năng của tri giác.  Trong khi thức: hay biết một vật, tưởng nhận ra những dấu hiệu đặc thù của vật ấy để phân biệt với những vật khác.  Dấu hiệu được phân biệt này quan trọng để nhận ra một vật lần thức hai và thứ ba, và trong thức tế, mỗi lần ta hay biết vật ấy thì đó Tưởng dẫn đến trí nhớ.

Điều quan trọng nên ghi nhận là tưởng uẩn thưởng phỉnh gạt ta.  Nếu ta không thấy được bản chất thật của sự vật thì ta sẽ sống trong ảo giác. Do kinh nghiệm, thành kiến sẵn có: các trạng thái luyến ái và ưu phiền, thương yêu và ghét bỏ của ta sẽ làm ta không thấy được giác quan (căn) và những đối tượng giác quan (trần) theo đúng bản chất khách quan của nó. Giác quan làm cho ta hiểu biết sai lầm và dẫn dắt ta đi lạc nẻo.  Lối nhìn của ta đối với sự vật trở nên sai lạc. Chỉ có chánh kiến mới loại trừ những ảo kiến ấy và giúp con người nhận ra bản chất thật sự nằm phía dưới mọi hình thức. Chỉ đến khi vượt ra khỏi đám mây mờ ảo kiến của cảm giác và tri giác con người  mới đạt đến trí tuệ. Trong tâm lý học phổ thông các nhà tâm lý học quan niệm rằng tư duy cũng vẫn sai lầm và phải trải qua sai lầm mới đạt đến chân lý. Đó là chưa nói tới tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý.

Khi một tri giác riêng lẻ, dầu lầm lạc hay không mà phát sanh thường xuyên, thì nó càng tăng trưởng dũng mãnh và bám lấy tâm ta.  Chừng đó khó mà dứt nó ra, trong khi phần lớn tri giác của ta đều sai lầm.  Đức Phật dạy:

“Những người bám níu và tri giác của lục căn.
Và những quan kiến sai lầm và huyễn hoặc
Người ấy sống ồn áo cãi vã trong thế gian” 


3) Hành: (sankhàra)activities

Theo sau tri giác (Tưởng uẩn) là nhóm thành phần cấu hợp nên tác ý hay cấu hợp tinh thần (hành uẩn)

Hành uẩn là mt s tp hp ca các hot đng ca tâm (ý hành), ca li  (khẩu hành) , ca thân (thân hành).  Nó cũng được xem là ý chí sng ca con người

- Nhóm hành uẩn này bao gồm tất cả những yếu tố tâm hay tâm sở, ngoại trừ thọ và tưởng đã đề cập ở phần trên.  A Tỳ Đàm nói đến 52 tâm sở.  Thọ và Tưởng là hai trong 52 tâm sở ấy nhưng không phải là hành hay những cấu hợp tác ý.  Tác ý hay ý đinh  nằm phía sau hành động, có một vai trò chủ yếu trong lãnh vực tinh thần, có tác dụng sâu sắc đến phần tâm lý của nghiệp, và nếu như vậy thì tác ý không chỉ là hiện tượng chú ý trong tâm lý học phổ thông.  Đúng hơn nó là xu hướng của cá nhân bởi vì:

Xu hướng cá nhân là nhng s thích, hng thú, đng cơ hot đng ca con người do nhu cu cuc sng sinh ra”  

Tâm lý học Phật giáo cho rằng tác ý là ý muốn làm, là động cơ thúc đẩy đưa đến hành động.  Đức Phật dạy:

Này chư T Kheo, Như Lai tuyên ngôn, tác ý là nghip, đã có ý mun là con người có hành đng, li nói suy tư.” 

Tác ý là yếu tố quyết định mọi sinh hoạt của chúng ta, thiện hay bất thiện, hành động và phản ứng của hành động, nhân và quả triền miên tiếp nối, vận chuyển vô cùng tận.  Do vậy con người luôn luôn thay đổi, trở nên tốt hơn hoặc xấu hơn.  Tình trạng này hoàn toàn tuỳ thuộc vào tác ý và hành động của chính bản thân ta.

Tất cả hot đng tâm lý ca con người, như là các mong ước, các ước nguyn, các tư tưởng thin và bt thin, ghét, thương, ganh t, t hãnh, các phản ng ca tâm thc đi vi đi sng...to nên đi sng hin ti và đi sng tương lai là thuc HÀNH UN.  Các hot đng tâm lý y to ra ý nghĩa cuc sng, không có chúng thì đi sng tr nên vô nghĩa.  Tuy nhiên, s vn hành ca chúng ch là s vn hành của mt o giác v t ngã (hay vô minh) nói lên rng ý nghĩa ca mi giá tr ca đi sng con người là rt đen ti”  

Theo Phật giáo không có đời sống nào sau khi chết, cũng không có cuộc sống nào trước khi sanh ra mà không tuỳ thuộc nơi nghiệp hay hành động có tác ý. Nghiệp báo là hệ luận của tái sanh. Tiến trình Tâm - Vật lý này mà ta nhận thức rõ ràng trong đời sống không chấm dứt lúc ta chết.  Chính cái luồng tâm thức luôn luôn chuyển động ấy gọi là nghiệp lực. Năng lực hùng mạnh này, ý chí muốn sống này làm cho cuộc sống liên tục, triền miên, cùng với vô minh và ái dục của con người.  Con người buông lung, thoả mãn với các hành vô thường thì cánh cửa giải thoát càng khoá chặt.

4. Thức: (Vinnàna)

Thức uẩn là một trong năm uẩn cấu thành con người.  Cũng như THỌ TƯỞNG VÀ HÀNH:  thức cũng có 6 loại: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Chức năng của thức cũng rất khác nhau. Tất cả những cảm thọ của chúng ta đều được kinh nghiệm qua sự tiếp xúc của giác quan và ngoại cảnh.  Khả năng cảm nhận đối tượng tinh thần không phải là cái gì có thể sờ đụng hay cảm giác như năm giác quan kia như mắt nhận ra thế gian màu sắc hoặc hình thể, tai nhận ra những âm thanh...nhưng cái tâm nhận ra thế giới tư tưởng và ý nghĩ, khả năng cảm nhân của tâm là hơn hết trong lãnh vực tinh thần. Mắt rất cần để nhìn thấy hình thể và màu sắc nhưng mắt không thể suy tư những tư tưởng và thâu nhận ý nghĩ.  Nói cách khác, trần cảnh không thể cảm nhận với khả năng của giác quan mà không có sự can thiệp của thức.

Khi nói rằng thức phát sanh do sự hỗ tương tác dụng của giác quan và đối tượng của nó.  Điều này không có nghĩa rằng thức là sản phẩm, cái gì tạo nên do căn và trần; cả hai vốn là thuần tuý vật lý.  Nếu như vậy thì ta đã chấp nhận lý thuyết của trường phái vật chất tin rằng thức chỉ giản dị là một sản phẩn phụ của vật chất.  Chức năng của thức là hay biết đối tượng.  Mắt con người có thể tiếp xúc một hình thể, nhưng nếu không có thức chúng ta sẽ không hiểu gì về đối tượng (thức tri là cấp độ nhận thức tương đương với cảm giác, tri giác và tư duy trong tâm lý học phổ thông). Tuy nhiên, thức cũng là một pháp hữu vi chuyển biến, không phải là một vong linh hay một hồn bất biến đối nghịch với vật chất, cũng không là một cái gì do vật chất sinh ra.

Duy thức học cho rằng thọ, tưởng, hành là những dòng sông phát khởi từ thức và nó sẽ mang nó tất cả những hiện khởi của nó trở về  thức. Vì vậy duy thức học đề cập đến thức là đề cập đến năng tàng và sở tàng. Khi ta buồn, vui, sướng, khổ cũng từ căn bản thức phát hiện, rồi tất cả đều trở về với căn bản thức. Vì vậy, chữ thức là tâm căn bản. Còn cảm thọ và tri thức và các loại tâm hành khác đều là những biểu hiện của tâm thức, từ tâm thức mà sinh khởi và sẽ trở về, mang hết tất cả những vốn liếng quy hướng cho tâm căn bản thức. Nó cất giũ tất cả những hạt giống, đồng thời nó cũng là những hạt giống đó.

Có 3 danh từ để nói về tâm: tâm (Citta), ý (Manas), và thức (Vinnàna).  Nói về bản chất và nguồn gốc ta dùng chữ tâm, về phương diện tác dụng nhận thức của tâm:  Tác dụng tri giác, cảm thọ suy tư, tưởng tượng, buồn đau vui sướng...ta dùng chữ thức và khi nói về động lực làm phát hiện nhận thức của thức thì ta dùng từ ý.

Tâm là nói tổng quát phần căn bản.  Tâm sở là nói phần chi tiết, phần hiện tượng biểu hiện của tâm.  Như vậy nói với tư cách căn bản thì gọi là tâm vương, khi nói về hành tướng của nó, những trạng thái tâm lý mà nó biểu hiện thì gọi là tâm sở.

Thức là yếu tố đầu tiên thuộc kiếp sống hiện tại.  Thức này là khởi điểm của luồng thức trôi chảy thuộc về một kiếp sinh tồn.  Hành uẩn quyết định phần thức này trong kiếp sống kế đó bằng cách ảnh hưởng đến cá tính mới. 

Luồng thức này mãi liên tục trôi chảy cho đến khi tận diệt tất cả những căn nguyên đưa đến những nhân duyên làm phát sanh những kiếp sinh tồn.  Các căn nguyên ấy là tham ái, sân hận và si mê.  Chính cái thức cũng phải do duyên tạo mới hiện hữu và biến chuyển.

Khi Tỷ kheo Sàti khởi lên tà kiến:

“Thức này dong ruổi luân chuyn nhưng không đi khác

Đức Phật đã quở trách Sàti rằng Sài đã hiểu sai lạc và xuyên tạc lời dạy của Ngài.

Ngài chỉ nói: “Thức do duyên mà khi, không có duyên thc không hin khi”. 

Nhà tâm lý học người Mỹ William James đã viết về thức như sau:

“Ô Không có gì nối chp.  Nó chy trôi.  Mt “con sông” hay mt “dòng sui” là hình nh ví d mà người ta t nhiên thường dùng đ mô t...hãy gi nó là dòng trưởng, lung tâm thc hay đi sng ch quan”. 

Tâm lý học phổ thông qui định hiện tượng tâm lý căn cứ vào sự tham gia của ý thức có a loại lớn:

1/ Những hin tượng tâm lý có ý thức:  Là những hiện tượng tâm lý có sự tham gia, tác động, ảnh hưởng của ý thức.  Đó là những hiện tượng tâm lý được nhận thức có chủ định, chủ tâm, có dự định trước.  Thức này sinh hoạt xuyên qua các giác quan.

2/ Những hin tượng tâm lý không ý thức (vô thức): Là những hiện tượng tâm lý xảy ra không có sự tham gia của ý thức và con người không nhận thức được.

Ví dụ: - Những hiện tượng tâm lý có tính chất bệnh lý như hiện tượng hoang tưởng, ảo giác, bệnh tâm thần.

- Những hiện tượng tâm lý xảy ra trong trạng thái ức chế của hệ thần kinh như: Mơ, mộng du, thôi miên.

3/ Tiềm thc: Là những hiện tượng ban đầu có ý thức, nhưng sau đó chúng được lập đi, lập lại và chìm lắng vào tâm, lặn vào bên trong tâm con người.  Tầng lớp tiềm thức là nơi giữ lại trí nhớ mà ta có thể hồi tưởng theo ý muốn.  Tiềm thức vốn được xem là tầng lớp tâm linh nằm kế liền phía dưới ý thức, là chỗ chứa đựng những ký ức mà tâm có thể lấy ra hay đem vào trở lại.

Tầng lớp vô thức là một cái kho chứa đựng tất cả những kinh nghiệm quá khứ mà ta không thể nhớ lại như ý muốn,  nhưng thỉnh thoảng tự nó biểu hiện trở lại trong bề mặt của ý thức mà không cần có gì bên ngoài khơi động.

Tâm lý Phật giáo (A Tỳ Đàm) không có các danh từ gọi những tầng lớp thức như thế nhưng có nói đến hai loại tâm thức đó là Lộ trình tâm và ý chí muốn sống (Sự liên tục sinh tồn-bhavanga citta). Dòng tâm hay bhavanga bao gồm cả vô thức, tiềm thức và ý thức.

1/ Lộ trình tâm: Là tiến trình tư tưởng luôn luôn xảy ra trên tầng lớp ý thức, tức là trong khi con người tỉnh thức, sinh hoạt xuyên qua sáu giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn hướng tâm.

Cần chú ý là tập quán chấp ngã thì tương đương với Mạt Na Thức.  Các thức uẩn, tưởng  uẩn, hành uẩn hoạt động mạnh dần (hay yếu dần) thì tương đương với sự huân tập và hiện hành các chủng tử do vậy vô thức và tiềm thức luôn là các chủng tử chứa trong A Lại Da thức.

2/ Tâm liên tục sinh tn: Sinh hoạt tâm trong lúc ta thức cũng như trong lúc ngủ mà không có chiêm bao mộng mị, hoạt động phía dưới tầng lớp thức.  Ta cũng có thể gọi là tiềm thức hay tiến trình tâm vô ý thức nhưng nó không hẳn đồng nghĩa, không bao hàm hoàn toàn thể những ý nghĩa chứa đựng trong hai danh từ: Tiềm thức và vô thức theo khái niệm của tâm lý học phổ thông.

Tóm lại trong năm uẩn, một uẩn đầu thuộc về sắc đã được đề cập ở trên, bốn uẩn còn lại thuộc về tâm thì cái gì có đặc tính cảm thọ thuộc về thọ uẩn.  Cái gì có đặc tính tri giác, tưởng tượng, thuộc về tưởng uẩn, cái gì có đặc tính tạo tác thì thuộc về hành uẩn.

Trong các uẩn trên, thức uẩn là trọng tâm của tất cả.

Như vậy, đối với năm nhóm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì mỗi nhóm là một dòng sông biến chuyển không ngừng. Tu học là nhận diện và quan sát những dòng sông ấy. Ta tiếp xúc với thân, quan sát những gì xảy ra trong thân, tiếp xúc với từng cảm thọ trong ta, sự phát sinh của một cảm thọ, sự chuyển biến của cảm thọ đó. Liễu tri các dục, các sắc, các cảm thọ là biết được vị ngọt, sư nguy hiểm sự xuất ly đối với các pháp ấy. Ta cũng phải tiếp xúc từng tri giác, từng tâm hành (từng hiện tượng tâm lý và sinh lý). Người Phật tử phải luôn nhận diện thọ và tưởng.  Phải thấy được bản chất nguồn gốc của nó ở trong tàng thức thì mình mới làm chủ được mình, mới chuyển hoá được chúng.  Đó là chánh niệm, đó là Tuệ.  Đó là sự sáng suốt theo dõi dòng sông cảm thọ và dòng sông tri giác. Tất cả những cảm thọ đều có thể tiếp xúc bằng chánh niệm và đối trị bằng hiểu biết Tam Pháp Ấn: vô thường, khổ, vô ngã.

Tri giác con người vốn sai lầm nên cứ chuốc lấy biết bao giận hờn, đau khổ, buồn rầu, trách móc.  Tất cả những đau khổ của con người đều có gốc rễ trong căn bản của chính mình.

Trong sự tu tập thiền quán, người tu tập đặt sự vận hành của cả năm uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành thức dưới sự kiểm soát của thiền quát hay trí tuệ, có nghĩa đó là sự vận hành của trí tuệ chứ không phải của vô minh, sẽ dẫn đến hạnh phúc và giải thoát trong hiện tại và tại đây.  Và đó cũng là cốt tuỷ của Thiền tập. 


PHẦN BỐN

KẾT LUẬN ĐẠO PHT VI LI SNG HƯỚNG NI TÂM VÀ BIN TÂM

Qua phần trình bày của luận văn tốt nghiệp chúng ta có thể nhận thấy: Tâm lý học phổ thông là một trong những khoa học quan trọng về con người. Theo quan điểm của triết học Mac Lê Nin thì tâm lý học phổ thông sẽ giải quyết các vấn đề về con người và xã hội theo cuộc sống trên thế gian.  Mọi giá trị tinh thần được đề cập đến ở phạm vi tương đối của một kiếp người. Đối với Đức Phật, vấn đề tôn giáo và nguồn cội của tôn giáo không phải là siêu hình, nhưng chính là vấn đề tâm lý, trí thức và trí tuệ.  Phật giáo quan niệm hoạt động tâm thức chỉ là một dòng trôi chảy của các duyên.  Cuộc sống là một tiến trình miên man không ngừng trôi và cứ như thế kiếp này sang kiếp khác. 

Chính vì lẽ đó tâm lý học Phật giáo chỉ nhằm nói về bản chất của tâm, phương pháp thanh lọc tâm. Cách duy nhất để giải quyết những hoài nghi và những vấn đề khúc mắc trong tâm thức là phương pháp tự quán chiếu. Do vậy, Đức Phật không sẵn sàng giải đáp những thắc mắc như:  Thế gian có trường tồn vĩnh cửu hay không? Thế gian có vô cùng vô tận hay không?  Nguồn gốc của thế gian là gì?...Đối với những câu hỏi và những thắc mắc xem hình như quan trọng nhưng không bổ ích ấy. Im lặng là giải đáp tốt đẹp nhất. Cách duy nhất để giải quyết những hoài nghi và những vấn đề khó khăn là nhìn sâu trở về nội tâm.  Đức Phật hướng dẫn ta vào đường lối phân biệt và khảo sát tâm lý cũng nhằm giúp ta phát triển năng lực và phẩm chất nội tâm. Đức Phật dạy: 

Chính tự các con phi kiên trì tinh tn và thành tu gii thoát cho chính mình.  Chư Pht ch ri sáng con đường”  

Do đó, con người cần phải khảo sát tỉ mỉ cái tâm của chính mình.  Để thông hiểu các tâm ý, tư tưởng hoạt động ra sao? Chúng phát sanh và hoại diệt thế nào?  Với mục đích chế ngự tâm, điều phục tâm, vì tâm vốn dong ruổi theo các dục vọng trên đời; bằng cách chuyên tâm vào phát triển Tứ Chánh Cần:

- Ngăn ngừa những tư tưởng xấu, các bất thiện pháp chưa phát sanh.

- Khắc phục, dứt bỏ các tư tưởng xấu đã phát sanh

- Làm phát khởi những tư tưởng tốt, thiện pháp chưa phát sanh

- Bảo trì và gìn giữ những tư tưởng tốt đã phát sanh.

Đó chính là chức năng của Chánh Tinh tấn nhằm dẫn đến nội tâm vắng lặng và trong sạch qua pháp hành thiền.  Thiện hay ác là thiện ác từ trong tâm, trong ý nghĩ ngay khi tâm ấy, ý nghĩ ấy chưa bộc lộ qua lời nói vàha2nh động nơi thân.  Từ trong tâm khởi lên ý nghĩ ác mà không được sự ngăn chặn kịp thời, thì sớm muộn lời nói ác và hành động ác cũng nối tiếp theo sau, dẫn tới quả khổ không thể tránh khỏi.

Hàng ngày chúng ta phải tu tập tâm, quán sát tâm, phòng hộ tâm, bất cứ một ý nghĩ bất thiện nào khởi lên đều phải được lập tức đoạn trừ.  Nhờ vậy, dần dần tâm ta sẽ trở nên thuần thiện và trong sáng.  Tâm thiện thì sống hạnh phúc an lạc.  Tâm sán thì thấy được vạn pháp như thật- thấy được Đạo, thấy được chân lý.  Những gì làm cho tâm ta mời tối? Đó là ý nghĩ và hành động bất thiện, những dục vọng thấp hèn.  Nếu thường xuyên tu tập tâm xa lìa các ác, bất thiện pháp, xa lìa tham dục thì tâm sẽ sáng chói như “trăng thoát mây che”.  Muốn đoạn trù và xa lìa các dục chúng ta phải biết các dục bắt nguồn từ tham sân si tác động vào thân tâm của ta như thế nào. Đức Phật đã dạy “vị ngọt” của các dục là niềm vui do sự thoả mãn dục vọng tạm thời:

Này các Tỷ kheo, thế nào là v ngt ca các dc? Các sc pháp do nhãn căn nhn thc, kh ái, kh lc, kh ý....hp dn, các tiếng do nhĩ căn nhn thc, các hương do t căn nhn thc, các xúc do thân căn nhn thc, kh ái, kh lc, kh ý....hp dn” 

Nhưng dục vọng vô cùng tạm bợ và nguy hiểm, dẫu có đạt được cũng như người uống nước muối, càng uống càng thêm khát.  Do vậy Đức Phật khuyên chúng ta xuất ly các dục, thay thế “vị ngọt” tạm bợ và thấp hèn của dục bằng niềm vui giải thoát của lòng từ và thiền định, đảm bảo cho chúng ta một trạng thái tâm hồn an nhiên tự tại.  Mục đích của Thiền tập là nhằm đạt tới một sự bình tĩnh nội tâm thường xuyên và ngày càng đi sâu vào tâm thức nhằm để thấy rõ bản thân mình và làm chủ bản thân mình.

Đức Phật dạy trong kinh Tạp A Hàm: Đã từ lâu, tâm của con người bị tham sân si làm ô nhiễm.  Bợn nhơ tinh thần làm cho tâm của chúng sanh ô nhiễm.  Cần gội rửa tâm làm cho tâm trong sạch.

Lối sống của người Phật tử là một tiến trình tích cực nhằm thanh lọc thân, khẩu, ý.  Đó là lối tự thanh lọc, tự trau dồi, tự phát triển nhằm tự mình chứng ngộ.  Điểm chính yếu là thành  quả thâu đạt được chứ không phải là lối tranh luận triết học hay trừu tượng hợp lý.  Pháp hành Thiền trong Phật giáo không nhằm hội nhập với một Đấng tối thượng cũng không nhằm chứng đạt những chứng  nghiệm huyền bí mà nhằm thành tựu trạng thái tâm vắng lặng và tuệ minh sát, tiến tới mục tiêu duy nhất là tâm giải thoát ra khỏi mọi trói buộc. Lối sống của Đạo Phật là lối sống tôn giáo hướng nội và biện tâm.  Hướng nội là để quân bình tâm, quân bình hướng ngoại, chứ không phải từ bỏ hướng ngoại.  Lý do là vì nội tâm của con người chứa đầy những bí ẩn mà con người không hiểu, không biết tới mức phủ nhận tâm cho rằng chỉ có vật chất.  Bộ não tiết ra tư tưởng như gan tiết ra mật (le cerveau sécrète là pensée comme le foie sécrete là bile), tuy rằng chưa có nhà khoa học nào phát hiện ra cơ chế bộ óc tiết ra tư tưởng như thế nào.  Do đó mà trong một thời gian dài, môn tâm lý học đã bị coi nhẹ ở phương Tây- Một môn khoa học mà theo sự đánh giá chung của người phương Tây vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, ấu trĩ.  Như lời phê phán của một nhà báo Mỹ (được trich dẫn trong một bài báo):

Về môn vt lý hc, người M đang thi đi nguyên t, nhưng v môn tâm lý hc, người M đang thi đi đ đá

Nếu chúng ta không biết tự mình chế ngự tâm, cân bằng hai xu thế hướng nội và hướng ngoại thì hậu quả là ta không làm chủ được bản thân mình sẽ bị ngoại cảnh chi phối.  Sự vật khó mà nhận thức như là nó thật sự đang là, mà sai lầm qua hoả mù của nội tâm dao động mạnh.  Thậm chí phản ứng tâm lý có thể dẫn đến những hành động điên đảo, xuất phát từ những xung động bản năng mãnh liệt và đáng sợ. Vấn đề này thường xảy ra ở các nền văn hoá hữu ngã.

Lối sống tôn giáo hướng nôi nếu được thực hành thường xuyên và có ý thức sẽ giúp chúng ta luôn luôn tỉnh táo, điều hoà được thân tâm, điều hoà tốt đẹp mối quan hệ giữa con người và xã hội.  Phương pháp hành thiền của Phật giáo cũng nhằm mục đích đó.

Từ ngữ “biện tâm” ở đây nhấn mạnh lối sống của người Phật Tử không chỉ là hướng nội mà còn phải biện tâm, nghĩa là tìm hiểu tâm, cải tạo tâm, điều hoà tâm, biết dụng tâm một cách tốt đẹp.  Từ ngữ “biện tâm” được vua Trần Thái Tông, một nhà nghiên cứu Phật học lỗi lạc thể hiện trong tác phẩm “Khoá Hư Lục” với nội dung như sau:

Mặc vn đi n, tiu n, bt câu tăng tc, hưu bit ti gia, xut gia, ch yếu bin tâm, bn vô nam n, hà tư trước tướng? Nghĩa là”:”Không kể là sng n dt trên núi hay là sng giũa th thành, không k là tăng hay tc,  không phân bit ti gia hay xut gia, ch ct bin tâm, vn đã không có phân bit nam n, sao li còn chp tướng?

Đạo Phật thật sự là đạo bình đẳng để tất cả mọi người có thể nương theo tu học.  Cốt yếu của sự tu hành là hướng nội, biện tâm, tìm hiểu tâm, cải tạo tâm, sử dụng tâm luôn ở trạng thái chú tâm tỉnh giác. Con người phải hiểu sự thật của chính mình và biết điều phục tâm mình để đạt an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại.

“Người tâm không ái dục,
Không bị sân nhuế hành
Vượt trên mọi thiện ác
Tỉnh giác được an vui”  


Là người trí phải biết điều hoà tâm, làm chủ tâm mình.  Phải biết rõ sự sinh khởi, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của từng trạng thái tâm thức khởi lên dù rất vi tế.  Đức Phật không thể nào được cầu thấy qua sắc tướng, hình ảnh hay được ban phúc giáng hoạ như bất kỳ một đấng Thần linh nào.  Chỉ có sự nỗ lực tu tập, với thiền định, với nội tâm trong sạch, vắng lặng, thoát khỏi mọi nhơ bẩn của tham sân si thì đó chính là thấy được Đức Phật. Chính vì vậy mà khi Vua Trần Thái Tông lánh len núi Yên Tử để cầu Phật thì quốc sư Viên Chứng đã nói với Vua:

Trong núi không có Phật.  Pht ch có trong tâm. Lòng lng mà biết thì đó là Pht, Nay nếu vua ng cái tâm y thì lp tc thành Pht, không phi kh cầu bên ngoài”. (“Sơn bản vô Phật, duy tồn hồ tâm, tâm tịch nhi trị, thị danh chân Phật.  Kim bệ ngộ thử tâm, tắc lập địa thành Phật, vô khổ ngoại cầu dã”)

Xã hội chúng ta đang sống là một xã hội mà khắp nơi làn sống của vật chất thế tục đang ngự trị.  Nhưng thật sự cũng có những làn sóng ngầm cũng rất mạnh mẽ đang chảy ngược lại, đó là những làn sóng của truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và đạo đức dân tộc, là làn sóng của những chân giá trị tâm linh siêu việt đạt được từ cuộc sống thiền tập, biện tâm, vị tha và vô ngã.

Trên đây là những gì của nội dung mà người viết muốn nói đến qua những đề tài luận văn: “Vài nét về tâm lý học phổ thông và tâm lý học Phật giáo”.  Vấn đề sẽ được sáng tỏ hơn nhiều nếu được khảo sát qua các công trình biên khảo khác.  Phải chăng tâm lý học Phật giáo cần được đưa vào trong nội dung ngành tâm lý học của học đường ngày nay?  


Thích Nữ Hương Nhũ

Giảng sư

Kết nối

Tổng số truy cập
Thông tin: 23.959
Pháp Âm: 26.125
Đang truy cập
Hôm qua: 14964
Tổng truy cập: 10.024.868
Số người đang online: 513

Các tin khác

PHÁP ÂM NỔI BẬT
Đang tải...

Giảng sư Xem tất cả