1- Bổn phận đối với chính mình.
2- Bổn phận đối với gia đình, người thân.
3- Bổn phận đối với cộng đồng xã hội.
a- Bổn phận đối với chính mình
Ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, người thân chúng ta phải làm sao xứng đáng là một người Phật tử chân chính, bằng cách tu tâm dưỡng tánh, để cho thân tâm được an lạc, bình yên hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Ngoài việc quy y Tam bảo, vâng giữ năm điều đạo đức, tin sâu nhân quả, tu mười điều lành tránh xa các việc xấu ác, sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng và cuối cùng là phước huệ song tu, hành Bồ-tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi.
b- Bổn phận đối với gia đình, người thân
Người Phật tử tại gia còn có gia đình người thân, nên phải có trách nhiệm làm sao vuông tròn cả hai bên chồng và vợ. Đã làm người thì ai cũng có cha mẹ, vợ hay chồng, con cái, bà con thân thích tạo nên quyến thuộc nội ngoại hai bên, cùng nhau gìn giữ và phát triển giống nòi nhân loại.
Đối với gia đình người thân, quý Phật tử phải khéo sắp xếp trong cách đối nhân xử thế, để làm tròn bổn phận giữa hai bên với nhau mà vẫn giữ được hòa khí vui vẻ, bằng tình người trong cuộc sống.
c- Bổn phận đối với cộng đồng xã hội
- Phật dạy ân nghĩa là gốc của con người
Ân quốc gia xã hội và anh linh các anh hùng nghĩa tử: Chúng ta sống trong một đất nước được yên ổn, ấm no và hạnh phúc, không bị chiến tranh là nhờ quốc gia và xã hội góp phần duy trì và gìn giữ, cho nên chúng ta phải làm tròn bổn phận như sau:
Làm tròn bổn phận công dân: Trước tiên là một công dân là phải đóng góp vào việc giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ, sự độc lập của quốc gia, dân tộc, góp phần bảo vệ các quyền lợi chánh đáng của người dân. Phát huy sáng tạo kỹ nghệ, kinh doanh thương mại làm cho đất nước ngày càng phát triển hưng thịnh, bền vững và lâu dài.
Phát huy văn hóa và bảo vệ những truyền thống tốt đẹp dân tộc: Người Phật tử cũng là một công dân, có bổn phận gìn giữ phát huy nền văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, một đất nước có trên bốn ngàn năm lịch sử văn hiến, và lấy đạo thờ ông bà tổ tiên làm nền tảng, kết hợp với đạo đức tâm linh Phật giáo để duy trì di sản văn hóa ông cha ta để lại, chúng ta cần phải gìn giữ và phát huy thêm những truyền thống tốt đẹp đó.
Giữ vẹn biên cương bờ cõi, bảo toàn độc lập: Nhờ có quốc gia và các anh linh các anh hùng nghĩa tử hy sinh giữ gìn, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ. Một đất nước nếu bị mất chủ quyền, mất độc lập thì dân chúng sẽ bị sưu cao, thuế nặng, làm lụng vất vả mà không có quyền bình đẳng về con người.
Chúng tôi biên soạn Kinh Thiện Sinh mà giảm bớt phần chủ tớ, nhưng vẫn thể hiện đầy đủ đạo đức làm người, để giữ gìn các mối quan hệ có tính cách nhân bản, nhằm giúp mọi người biết cách hoàn thiện chính mình.
Đây là một bản kinh nguyên thủy, ngắn gọn, xúc tích ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách làm tròn bổn phận và trách nhiệm của người Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng hơn là Phật dạy cách xây dựng phát triển một xã hội hài hòa, bền vững và lâu dài về mọi mặt trong cuộc sống.
Bài thứ tám là Kinh Phân biệt nghiệp báo, đây là bài Kinh mang tính triết lý sâu sắc với những lời dạy đạo đức, để phân biệt chánh tà trong thời kỳ mạt pháp và cách thức tu hành tìm gặp bậc minh sư rất là khó. Thế cho nên Phật dạy: Này các đệ tử, về thờ Tam bảo, có ba hạng người: Một là bọn ma tôn thờ đức Phật. Hai là người trời tôn thờ đức Phật. Ba là Phật tử tôn thờ đức Phật.
Trong thời kỳ mạt pháp, con người ít sống hiếu thuận, hòa kính với cha mẹ. Do người đời chạy theo tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều mà không làm chủ sáu giác quan mà tạo mười nghiệp xấu ác, gây bất hạnh khổ đau cho nhiều người.
Một số người tuy mang hình thức tu sĩ nhưng không giữ gìn giới hạnh phép tắc oai nghi, làm điều tà vạy, tuyên truyền mê tín, mượn đạo tạo đời mà sống ăn trên ngồi trước. Do đó khi gặp chánh pháp chúng ta hãy siêng năng tinh tấn, tu tập không lười mỏi. Gặp bậc minh sư, hết lòng phụng thờ, tôn kính chuyên cần học hỏi, thực tập, và làm theo những lời chỉ dạy cao cả, có tính cách hướng thượng.
Làm được thân người là việc khó, thân thể lành lặn, đủ sáu giác quan là một điều khó hơn. Thông minh, sáng suốt làm bậc tài khí của một quốc gia lại càng khó hơn nữa. Dù không gặp Phật ra đời, nhung ta được nghe chính pháp, gặp được thầy lành bạn tốt lại càng khó hơn mà nổ lực, thực tập chuyên cần lại càng quý hơn nữa. Thế cho nên khi còn trẻ khỏe, chúng ta phải học hỏi thực tập lời Phật dạy mà tìm cách vượt qua biển khổ sông mê chớ để thời gian luống trôi vô ích.
Tín ngưỡng dân gian, trẻ vui nhà già vui chùa là quan niệm sai lầm làm cho con người tự đánh mất chính mình, do đó sống ỷ lại vào gia đình người thân, mê tín thần thánh mà không biết cách làm chủ bản thân, nên bị thầy tà bạn ác chi phối và sống đời không đạo đức.
Bài thứ 9 là Kinh lời dạy cuối cùng của đức Phật hay còn được gọi là Kinh di chúc của Phật trước lúc Ngài nhập Niết-bàn tại rừng Ta-la song thọ, Kushinagar. Bài kinh được xem là tinh hoa cội gốc của người xuất gia, người cư sĩ tại gia cần phải tham khảo đọc tụng để thấu rõ chính pháp Phật-đà như ngón tay chỉ mặt trăng và chiếc bè đưa mọi người đến bờ giác ngộ, giải thoát.
Bài pháp đầu tiên đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lúc mới chuyển pháp luân độ cho 5 anh em Kiều-trần-như, đến khi lần thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la. Phật dạy những người đáng độ ta đã độ hết rồi, ở giữa hai cây Ta-la song thọ ngài sắp nhập Niết-bàn. Bấy giờ là lúc nửa đêm, Phật vì hàng bốn chúng đệ tử mà lược thuyết những chỗ cốt yếu trong giáo pháp.
"Tỳ-kheo các ông! Sau khi ta nhập diệt, nên tôn trọng, cung kính đối với giới luật, như ở chỗ tối tăm được thấy ánh sáng; như người nghèo được của báu. Nên biết rằng giới luật là thầy của các ông, cũng như ta đây còn trụ thế, không hề khác biệt. Phải tự mình luôn giữ chánh niệm, tâm ngay thẳng cầu thoát ly sinh tử. Không được che giấu lỗi lầm, hay làm những việc khác thường và dùng lời nói hăm dọa để mê hoặc sự sợ hãi của người khác. Đối với bốn món được cúng dường nên thọ dụng có chừng mực, biết vừa đủ.
Ứng dụng và hành trì Kinh này trong đời sống hiện tại, giúp chúng ta chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm tình thành thánh trí. Khi thực tập kinh này sẽ giúp cho người xuất gia và cư sĩ tại gia đi đúng chính đạo mà biết cách làm chủ bản thân ngay tại đây và bây giờ.
Bài thứ mười là bài sám hối sáu căn do vua Trần Thái Tông biên soạn, Hòa thượng Thanh Từ dịch trước nhất là nhắc nhỡ chúng ta buông hết những lầm mê do chấp ngã gây ra, để quay trở lại với tâm thanh tịnh sáng suốt. Đây là một điểm sáng tạo đặc biệt của dòng Thiền hiện đại Việt Nam chứ không phải tầm thường. Sám hối sáu căn, là pháp sám hối trực tiếp từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nhằm giúp chúng ta thấy được sai lầm ngay nơi thân này mà tìm cách sửa sai, chứ chẳng tìm cầu nơi khác. Chúng tôi biên soạn thành nghi thức tụng niệm hệ thống ba.
Như vậy, từ xưa đến nay chúng ta sống theo lầm mê hư vọng, nên quên mất bản tâm chính mình, không biết đâu là tà đạo, đâu là chánh đạo. Sự thật thì ai cũng đều có bản tâm chân thật, nhưng vì chúng ta chỉ sống với những tâm vọng tưởng, những tâm hư dối mà sống trong đau khổ lầm mê, do chạy theo âm thinh sắc tướng bên ngoài.
Pháp sám hối sáu căn này nhắc nhỡ mọi người khéo thức tỉnh trở về chỗ thấy, nghe, hay biết ngay nơi thân này thông qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Khi chúng ta mê lầm chạy theo trần cảnh bên ngoài là sắc thinh hương vị xúc pháp rồi tạo nghiệp sinh tử luân hồi không có ngày thôi dứt. Thế cho nên pháp sám hối sáu căn là cách thức nhằm nhắc nhỡ chúng ta biết ăn năn, hối lỗi để quay trở về bản tâm chân thật là tâm Phật sáng suốt của chính mình. Nhờ vậy, mọi hành giả sẽ biết cách thoát khỏi bao đau khổ lầm mê, từ vô thủy kiếp đến nay do quên mất bản tâm chân thật.
Pháp sám hối sáu căn này được áp dụng rộng rãi trong các Thiền Viện tu theo hệ phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam do Phật hoàng Trần Nhân Tông đời Trần sáng lập. Hòa thượng Thích Thanh Từ đã có công phục hưng lại dòng Thiền hiện đại Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, nhằm hướng dẫn cho bốn chúng tu học theo tinh thần dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.
Chúng tôi, chúng con là hàng hậu học có phúc duyên to lớn được xuất gia tại Thiền Viện Thường Chiếu, tu theo Thiền phái Trúc lâm Yên Tử Việt Nam do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Một dòng thiền hiện đại Việt Nam, tu theo tinh thần Phật giáo Việt Nam do con người Việt Nam sáng lập mà Hòa thượng Thượng Thanh Hạ Từ đã có công phục hưng lại.
Do nhân duyên đầy đủ Thượng tọa Thích Nhật Từ đã nhận lời mời của Ủy ban Huyện Hà Trung và Phật giáo Tỉnh Thanh Hóa phục hưng lại ngôi Chùa Linh Xứng Hà Ngọc-Hà Trung-Thanh Hóa do Thái úy Lý Thường Kiệt xây dựng năm 1085-1089 nay trở thành phế tích. Chúng tôi được thầy Nhật Từ mời về lãnh trách nhiệm hướng dẫn bốn chúng tu học theo đúng chính pháp Phật-đà và toàn quyền duy trì nếp sống Tăng đoàn Chùa Linh Xứng.
Thầy Nhật Từ hiện tại đang phục hưng lại tinh thần Phật giáo nguyên chất, tu theo lời Phật dạy có nguồn gốc lịch sử lấy giáo lý Tứ diệu đế làm nền tảng căn bản, thực hành Bát chánh đạo là phương pháp thực tập chuyển hóa, bàn bạc trong các kinh điển Phật giáo nguyên thủy và các kinh điển Phật giáo phát triển lấy giới, định, tuệ làm đầu.
Chúng tôi, chúng con có được phúc duyên đầy đủ dung hợp lại lời Phật, Tổ và Bồ-tát thành một pháp tu căn bản mang tính thiền học, từ thấp đến cao phù hợp với tín ngưỡng nhân gian miền Bắc Trung bộ đất nước Việt Nam.
Thứ nhất tu theo lời Phật dạy lấy bát chánh đạo làm nền tảng tu hành, chánh kiến, chánh tư duy thuộc về trí tuệ. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về giữ giới. Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về định lực.
Tám nguyên tắc hành động Bát Chánh Đạo không phải là một tiến trình sắp xếp theo thứ tự nhất định, như việc yếu tố này phải đứng trước yếu tố kia. Trên phương diện thiết lập để tu học, tám yếu tố này được chia ra làm ba nhóm:
- Nhóm giới luật được liên kết nhau bởi chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.
- Nhóm định lực được kết hợp hài hòa bởi chánh tin tấn, chánh niệm và chánh định.
- Nhóm trí tuệ được chiêm nghiệm và tu tập bởi chánh kiến và chánh tư duy.
Nói rộng ra là Bát Chánh Đạo, nói gọn lại là Giới-Định-Tuệ. Do đó, trí tuệ là một phương tiện tu tập thiện xảo, hầu giúp mọi người thức tỉnh để mở mang tâm trí, và thấy biết đúng như thật.
Bát Chánh Đạo là tám con đường ngay thẳng, hay là tám phương pháp nhiệm mầu mật thiết, luôn giúp người Phật tử đạt đến an lạc, hạnh phúc ngay trong đời sống hằng ngày. Trong đạo Phật, Bát Chánh Đạo được xem như phương pháp số một, giúp chúng ta biết cách dứt trừ phiền muộn, khổ đau để đạt đến an lạc hạnh phúc, tự tại và giác ngộ, giải thoát.
Thứ hai là tu theo đường lối của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam do Phật hoàng Trần Nhân Tông đời Trần sáng lập. Cương yếu tu hành lấy “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”, nghĩa là quay lại chính mình đó là phận sự gốc chẳng từ bên ngoài mà được.
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, triều đại nhà Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm, cũng như chính sách hộ quốc an dân, khuyên mọi người giữ năm giới và tu mười điều lành, nhờ vậy đất nước phát triển vô cùng tốt đẹp.
Năm 1299, vua Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau này vua đổi hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà ngày nay mọi người thường tôn xưng là Phật hoàng Trần Nhân Tông và là người sáng lập chính thức thiền phái Trúc Lâm.
Từ đó trở đi, thiền phái trúc lâm Yên Tử trở thành nổi tiếng, thế lực lan rộng khắp mọi nơi. Một ông vua đã từng dẫn dắt muôn dân đánh bại cuộc xâm lăng của nhà Nguyên, để đem lại hòa bình và thịnh trị cho dân tộc Việt Nam.
Trúc Lâm tuy học hỏi và nhận được yếu chỉ thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ thờ ngài làm thầy, nhưng giữ giới luật nghiêm minh.
Ngài được tôn danh là Phật hoàng Trần Nhân Tông, Ngài là vị Tổ đã sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền thuần túy của Phật giáo Việt Nam.
Một nét đặc sắc nổi bật của Phật hoàng Trần Nhân Tông, đó là thái độ khoan dung của Ngài đối với một số quan lại đã viết biểu dâng cho nhà Nguyên xin đầu hàng. Đức vua đã không truy cứu trách nhiệm xử tội họ mà ra lệnh đốt bỏ các tờ biểu đó. Tấm lòng khoan dung độ lượng và sẵn sàng tha thứ của nhà vua quả là hiếm có, đã cảm hóa được họ tâm phục, khẩu phục.
Mười bốn năm trên ngôi vua, năm năm trên ngôi Thái thượng hoàng, Phật hoàng Trần Nhân Tông luôn là vị minh quân có một không hai trong lịch sử nước ta. Ngài đã biết đem giáo lý Phật-đà áp dụng cho toàn dân, nhờ vậy mọi người sống ấm no hạnh phúc và thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống, không thấy ai là kẻ thù.
Khi còn là hoàng thái tử, Ngài đã hấp thụ được tinh ba của thiền do Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ dạy nên đã trường trai và muốn ít biết đủ để sống đời đạo hạnh. Và đến khi làm vua, Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh tu hành và thường đến chùa Tư Phước trong đại nội để tu tập. Mặc dù phải giải quyết rất nhiều bộn bề công việc của đất nước, nhưng Ngài vẫn giữ vững ý chí lập trường để tu hành.
Sau khi hoàn thành trách nhiệm của một vị minh quân đối với giang sơn xã tắc, năm 1299 Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, để xuất gia tu hành trên núi Yên Tử. Điều này gợi cho chúng ta cảm nhận rằng Phật hoàng Trần Nhân Tông là Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân làm vua ở Việt Nam để cứu giúp nhân dân ta thoát khỏi khổ nạn của giặc ngoại xâm thời đó.
Chính vì vậy, đối với Phật giáo Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời là một nét son vàng sáng chói đem lại bình yên hạnh phúc cho toàn dân.
Hòa Thượng Thanh Từ ngày hôm nay đã có công rất lớn là khôi phục lại Thiền phái Trúc Lâm, đây là bước ngoặc quan trọng đang giúp mọi người trong cả nước, quy hướng về Phật giáo gầy dựng con người sống làm việc theo tinh thần từ bi hỷ xả mà cùng nhau phát triển một đất nước văn minh, giàu mạnh về vật chất lẫn tinh thần bằng trái tim thương yêu và hiểu biết.
Đọc lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ, chúng ta có thể hãnh diện vì Ngài là một vị Thái tử chuẩn bị lên ngôi vua, lại dám bỏ ngai vàng để đi tu, điều này rất hiếm có trong lịch sử nhân loại. Người khai sáng ra đạo Phật của chúng ta là người sắp hưởng địa vị cao tột nhất thế gian mà Ngài vẫn không màng đến, ra đi tìm đạo để giác ngộ cho mình và tất cả chúng sinh. Ngày hôm nay, Phật giáo đã được truyền bá sâu rộng khắp thế giới là một dấu ấn quan trọng để mọi người biết cách chuyển hóa khổ đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Chúng ta càng hãnh diện hơn nữa, ở Việt Nam một ông vua đi tu. Đang làm vua đủ uy quyền thế lực muốn gì được nấy, hưởng thụ đầy đủ các dục lạc thế gian, vậy mà vua Trần Nhân Tông lại đem tất cả sự nghiệp giao cho con để đi tu. Tư cách xuất gia của Ngài là một điểm son sáng chói, khiến chúng ta càng tự hào hãnh diện hơn nữa.
Đức Phật là một Thái tử đi tu, ông Tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm thuần chất Việt Nam của mình là một ông vua đi tu, còn chúng ta là những thành phần nào trong xã hội? So với đức Phật và Sơ tổ Trúc Lâm, các Ngài ở trong hoàn cảnh cao sang quyền quý mà vẫn dứt ra được để thành tựu viên mãn. Những việc rất khó làm mà các Ngài đã làm được, thì ngày nay chúng ta là những kẻ hậu học phải tâm quyết nhiều hơn nữa trong việc tu hành của mình bằng cách giữ giới, thiền định, bố thí và dùng trí tuệ để soi sáng phiền não nhiễm ô tan hòa vào chân tâm hay phật tính sáng suốt của mình.
Như vậy về mặt lịch sử, chúng ta hãnh diện thấy Phật Tổ cũng là một con người như tất cả mọi người, nhờ quyết chí kiên trì bền bỉ trong việc tu hành nhờ thấy được hạnh phúc thế gian chỉ là tạm bợ không dài lâu bởi sự vô thường đổi thay của nó. Nhờ vậy, chúng ta sẽ tin chắc rằng nếu quyết chí tu hành, cố gắng buông xả không chấp trước vào ta, người, chúng sinh hay thân tâm hoàn cảnh là thật, thì sẽ đạt được kết quả tốt đẹp….
Phật giáo thời Trần rất hưng thịnh nhờ các vị vua biết tu thiền, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia nhờ tham thiền mà được ngộ đạo, khai mở Phật tâm ngay nơi thân này. Cho nên vua Trần Thánh Tông mới gởi Thái tử Trần Khâm (Trần Nhân Tông) khi còn nhỏ cho Tuệ Trung Thượng Sĩ hướng dẫn tu thiền. Khi học hỏi gần xong sắp trở về triều, trước lúc từ giã Thái tử hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ: "Bạch Thượng Sĩ, pháp yếu của Thiền tông là gì? ". Thượng Sĩ trả lời: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc".
"Phản quan tự kỷ" là soi sáng hay xem xét lại chính mình. "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc" có nghĩa xem xét lại chính mình là việc bổn phận, chẳng từ nơi khác mà được. Đó là câu châm ngôn bất hủ mà trong giới nhà Thiền Việt Nam thường xử dụng để điều phục tâm mình. (Trích yếu chỉ Thiền phái Trúc Lâm)
Thứ ba là tu theo tinh thần Bồ-tát Quán Thế Âm lấy “Phản văn văn tự tánh” làm đầu, chữ phản ở đây có nghĩa là ngược lại. Thế cho nên trong Kinh Lăng Nghiêm, Bồ-tát Văn Thù khuyên đại chúng và ngài A nan: “Xoay cơ quan nghe của ông trở lại nghe tính nghe của mình, thành tựu tính nghe là đạo vô thượng. Đây là con đường vào cửa Niết Bàn của tất cả chư Phật nhiều như số vi trần.”
Quán Thế Âm có nghĩa là quán sát xem xét lắng nghe tiếng khổ của tha nhân để tùy duyên cứu độ. Ngài luôn quán chiếu cuộc đời lắng nghe âm thanh theo nguyên lý, duyên khởi, vô ngã, vị tha, nhờ vậy biết cách giúp chúng ta vượt qua lo lắng sợ hãi, thoát khỏi sự ràng buộc của khổ đau. Quán chiếu cuộc đời thực tế có 5 cách:
Một là quán chân thật, hai là quán thanh tịnh, ba là quán trí tuệ rộng lớn, bốn là quán tình thương, năm là quán cứu khổ. Mỗi hành giả nương vào năm pháp quán này, mà vươn lên làm mới lại chính mình vượt thoát mọi khổ đau ràng buộc trong cuộc đời.
Quán chân thật để thấy rõ bản chất cuộc đời là một dòng chuyển biến, theo nguyên lý duyên khởi, vô ngã, vô thường.
“Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. ”
Tất cả mọi hiện tượng sự vật không có thực thể cố định, nhờ quán chiếu như vậy nên chúng ta dễ dàng buông xả, không chấp trước dính mắc về thân tâm, ta, người, hoàn cảnh.
Quán thanh tịnh để thấy rõ bản chất của các pháp không nhơ sạch, đúng sai, tốt xấu, nhờ vậy chúng ta dứt tưởng nên hành giả sống lạc quan không dính mắc hai bên.
Quán trí tuệ rộng lớn, là pháp quán cần yếu của mỗi hành giả. Không có trí tuệ chúng ta dễ rơi vào si mê lầm lạc, muốn có trí tuệ mỗi hành giả phải biết thiền định để loại trừ rác rưởi tà niệm. Thế cho nên đất tâm nếu không, thì mặt trời trí tuệ tự sáng. Hành giả khi có trí tuệ thì thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách nên gọi là Quán Tự Tại.
Hai pháp quán sau gộp chung lại gọi là quán từ bi, tâm từ bi có thể phát xuất từ tấm lòng vị tha của mỗi con người. Nhờ quán từ bi mỗi hành giả thấu suốt nguyên lý duyên khởi, vô ngã tính không thực thể của các pháp. Nhưng có tính biết sáng suốt hằng tri, hằng giác nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Do biết rõ thật giả phân minh, thế cho nên Bồ-tát đi vào đời luôn đem niềm vui, tình thương chân thật bình đẳng với tất cả chúng sinh, dù đó là người thù.
Ngoài ra, tinh thần của Bồ-tát Quán Thế Âm trong mỗi hành giả bằng cách thức độ sinh đa dạng với 32 ứng thân khác nhau. Bồ-tát độ sinh dưới nhiều hình thức từ một ông vua, thủ tướng hay tổng thống cho đến mọi thành phần trong xã hội. Chúng sinh cần nhu cầu nào thì Bồ-tát ứng hiện với điều kiện đó để cho phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của mọi người.
Con đường tỉnh thức Phật, Tổ và Bồ-tát là phương pháp tu hành được dung hợp từ thấp đến cao mà vẫn giữ cốt lỗi của Phật giáo lịch sử, tinh thần Phật giáo dân tộc Việt Nam và tinh thần “tốt đạo đẹp đời” với phương châm lắng nghe và cùng nhau hiến tặng niềm vui, san sẻ nỗi khổ niềm đau bằng trái tim có hiểu biết.
Mùa an cư kiết hạ năm 2016 Phật giáo Tỉnh Thanh Hóa
Kính ghi
Sa môn Thích Đạt Ma Phổ Giác