Zeilinger đã gởi một hạt photon từ đảo Santa Cruz
(hạt A) đến đảo Tenerife cách xa 89 miles
(hạt B), nhưng do 2 hạt photon ở hai đảo có sự liên kết nội tại, khi ông xoay hạt A muốn biết hạt B phản ứng như thế nào, ông không cần phải chờ tín hiệu của hạt B truyền qua 89 km biển mà chỉ cần xem hạt C ở kế bên hạt A bởi vì hạt C là một bản sao giống hệt hạt B nên có thể coi như hạt C thay thế cho hạt B. Giống như người thân của bạn gởi 1000USD từ Mỹ về VN, bạn không cần phải chờ số tiền đó đi qua hàng vạn km biển và đất liền, người ta có thể ngay tức thời đưa số tiền 1000USD có sẵn ở tại ngân hàng cho bạn bởi vì hai số tiền đó giống hệt nhau.
Hiện tượng này sẽ rất có ý nghĩa với những khoảng cách xa xôi trong vũ trụ. Thí dụ nếu ứng dụng được phương thức thông tin này thì để nhận tín hiệu từ Sao Mộc thay vì phải chờ 35 phút để tín hiệu vượt qua mấy trăm triệu km không gian, có thể nắm được tín hiệu tức thời không mất thời gian do liên kết lượng tử bởi vì nó không phải vượt qua bất cứ khoảng cách không gian nào.
Lúc sinh thời Einstein có biết hiện tượng này, nhưng ông rất bối rối không hiểu được, nên phát biểu rằng đó là tác động ma quái từ xa
(Spooky action at a distance). Hiện tượng này còn biểu lộ những tính chất rất lạ lùng mà Einstein không thể nào chấp nhận nổi: Đó là vật không có tự tính, cụ thể là hạt photon không có số spin sẵn, mà đó chỉ là số đo do con người gán cho nó lúc đo đạc. Photon không có định xứ
(nonlocality) tức vị trí nhất định, định xứ cũng là do con người gán cho. Số lượng hai photon cũng không thực có, con người thấy là hai nhưng thực tế không phải là hai. Gần đây Maria Chekhova và các đồng sự tại Viện Khoa học Ánh sáng Max Planck và Đại học Moscow vừa tạo ra những trạng thái lượng tử chứa tới 100.000 photon, và tất cả chúng đều bị vướng víu với nhau. Như vậy con số hai photon, 100.000 photon, hay vô cực photon là do con người tạo ra, cảm thấy. Số lượng là do ý thức của con người tạo ra. Mặt khác khái niệm về khoảng cách không gian
(18 km trong thí nghiệm của Gisin, 143 km trong thí nghiệm của Zeilinger) hay thời gian
(không mất thời gian hay mất bao lâu) đều là do con người tạo ra. Các nhà duy thức đã thấu hiểu tất cả những điều này nên họ mới tổng kết một câu xanh dờn trong Thành Duy Thức Luận: Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức. Họ biết tất cả những phân biệt về tánh tướng, về thiện ác đều chỉ là giả lập, là ảo chứ không phải thật
(Liễu cảnh vi tánh tướng, Thiện, bất thiện câu phi 了境為性相,善不善俱非 hiểu rõ cảnh chỉ là tánh và tướng- thông tin- thiện và bất thiện đều không có thật).
Einstein đã cố chống lại thuyết lượng tử, năm 1935, ông cùng với Podolsky và Rosen đưa ra một giả thuyết để bác bỏ thuyết lượng tử mà sau này giới khoa học thường gọi là nghịch lý EPR
(EPR paradox). Năm 1964, tức 11 năm sau khi Einstein qua đời, John Bell có sáng kiến lập ra bất đẳng thức mang tên ông, dựa theo các tính chất mà nhóm EPR cho là đúng, để kiểm chứng giả thuyết EPR. Tất cả các thí nghiệm đều cho thấy bất đẳng thức Bell bị vi phạm, điều đó chứng tỏ giả thuyết của nhóm Einstein là sai lầm.
Như vậy qua thí nghiệm liên kết lượng tử, khoa học đã chứng minh được 3 điều :
- Vật chất
(hạt photon hay hạt electron…) là không có thật
(non realism) chỉ là do tâm niệm tạo ra
(thấy rõ qua thí nghiệm 2 khe hở)
- Không gian và thời gian đều không có thật do tính chất bất định xứ
(non locality) của hạt. Hạt photon hay hạt electron ở dạng sóng thì ở khắp nơi không có vị trí nhất định.
- Số lượng không có thật
(non quantity) tất cả các hạt đều là ảo vì một hạt photon cũng là 2 hạt, 100.000 hạt hay vô lượng hạt. Không có hạt nào là thật cả.
Như vậy thí nghiệm liên kết lượng tử
(quantum entanglement) đã chứng tỏ thần thức tức a-lại-da thức là vô sở trụ
(không có không gian, không có thời gian, không có số lượng, chỉ là ảo cảnh không có thật, bản chất của nó chỉ là thông tin vô định hình (chưa có phân biệt)).
Thế nào là thông tin vô định hình?
Thông tin ở dạng số nhị phân mà chúng ta hiện nay rất quen thuộc đều là thông tin vô định hình, chỉ là những con số vô nghĩa, chưa có phân biệt, chưa có nghĩa lý gì cả. Vậy khi nào thì thông tin đó mới được định hình, mới có nghĩa lý?
Thông tin đó chỉ được định hình khi chúng ta gán ghép cho mỗi con số một đặc điểm, một ý nghĩa chủ quan nào đó. Nhưng để cho mọi người đều thấy như nhau, thì người ta phải đưa ra một quy ước thống nhất. Chẳng hạn chữ @ được gán cho số 0, chữ A được gán cho số 1, chữ B được gán cho số 2, dấu ! được gán cho số 33, dấu & được gán cho số 38 v.v…đó là bảng ký tự ASCII.
Sau khi được gán ghép thì cả dãy số nhị phân sẽ biến thành văn bản có ý nghĩa. Thí dụ:
0100111000111111011011100110011100100000011011000011111100100000011
011010011111101110100001000000110001100111111001000000110011100111111011
01001001000000111100001101001011011100110100000100000001111110011111101110000
Trên đây là một dãy số nhị phân vô định hình, vô nghĩa. Nhưng khi gán ghép các ký tự của bảng mã ASCII vào thì nó trở nên có ý nghĩa. Ý nghĩa đó là:
Nàng là một cô gái xinh đẹp.
Nhưng để chuyển đổi hàng hàng lớp lớp những con số nhị phân của một bài báo trong đó có chữ viết, có hình ảnh, âm thanh, video…thì phải cần một bộ vi xử lý
(processor) cực nhanh, một giây có thể thay thế hàng tỷ đặc điểm cho hàng tỷ con số thì màn hình và loa mới hiện ra những văn bản, hình ảnh, âm thanh, video mà chúng ta thấy.

Chính vì vậy chúng ta mới cần những con chip cực mạnh, mỗi milimét vuông chứa hàng tỷ transitors để xử lý thông tin. Điện thoại di động là một loại thiết bị rất nhỏ gọn có thể nằm trọn trong lòng bàn tay nhưng có khả năng rất lớn. Chính vì không gian của chiếc điện thoại di động rất giới hạn mà cần khả năng xử lý rất lớn nên đòi hỏi con chip phải rất nhỏ để không tốn chỗ mà phải rất mạnh. Chip mạnh nhất hiện nay đã thương mại hóa là Snapdragon 8+Gen1 của hãng Qualcomm Mỹ thiết kế, với tiến trình 4nm do hãng TSMC Đài Loan sản xuất.
Hãng SMIC của TQ thì lạc hậu hơn hãng TSMC chỉ mới sản xuất được con chip với tiến trình 7nm với tên tạm gọi là SMIC’s N+2 chip. Chỉ số nm càng nhỏ thì càng khó sản xuất nhưng càng hiệu quả, càng nhanh và ít tốn pin.
KẾT LUẬN
Chúng ta đọc thấy trong kinh điển nói rằng khi một người mới chết thì thần thức chưa đầu thai tái sinh ngay trong một thân thể khác, trong một cảnh giới khác mà còn ở giai đoạn thân trung ấm. Bộ máy cơ thể đã ngừng hoạt động, tim ngừng đập, não ngừng xử lý thông tin, nhưng đó chỉ mới có sắc uẩn ngừng hoạt động, các uẩn còn lại là thọ, tưởng, hành, thức, vẫn tiếp tục hoạt động và vẫn còn dính dáng với thân ngũ ấm nên gọi là thân trung ấm.
Những người có tập khí nghiệp thiện ác rõ ràng phân minh có thể sớm đầu thai qua thân ngũ ấm mới, cảnh giới mới. Còn người nghiệp thiện ác gần bằng nhau nửa thiện nửa ác thì phân vân lâu hơn, lâu nhất là 49 ngày mới đi qua cảnh giới mới.
Thế nhân gọi là linh hồn đi đầu thai, nhưng Phật pháp gọi là thần thức, nó cũng tức là a-lại-da thức chứa đủ mọi chủng tử của vô lượng chúng sinh nhưng đều là tâm
(vô phân biệt) hay thức
(có phân biệt). Tâm là thông tin vô định hình, còn thức là thông tin đã định hình tức là đã gán ghép các đặc điểm, đặc tính vào tâm. Sự gán ghép này là do tập khí tức thói quen quyết định.
Thí nghiệm hai khe hở đã chứng minh rằng chính tâm niệm của người quan sát đã làm sụp đổ sóng tiềm năng và biến sóng thành hạt cơ bản. Điều đó cũng có nghĩa là tâm thức đã tạo ra vật chất. Vật chất như hạt photon, hạt electron hay các hạt cơ bản khác, bản chất cũng chỉ là thông tin. Thông tin đó chứa trong a-lại-da thức và khi một chúng sinh lâm chung còn trong tình trạng thân trung ấm, khi sắc thân đã ngừng hoạt động nhưng thức chưa chuyển sang một kiếp sống mới thì gọi là thần thức.
Dân gian gọi nó là linh hồn hàm ý rằng nó có bản ngã, cái ta riêng biệt và cái ta đó mãi trôi lăn sinh tử trong lục đạo luân hồi. Người chấp cho rằng linh hồn có thật, linh hồn đi đầu thai thì sẽ không bao giờ giác ngộ vì chấp ngã và chấp pháp. Hễ chấp là tà kiến, người chấp đi theo tà đạo.
Còn Kinh điển gọi nó là thần thức, nó vô ngã vì bao gồm tất cả chúng sinh, thông tin chứa trong đó vô cùng lớn vì là thông tin của vô lượng chúng sinh trong vô lượng kiếp nên gọi là a-lại-da thức hay tàng thức, nhưng thông tin hay chủng tử quyết định của thần thức hay thân trung ấm đương cơ lại do mạt-na thức tức là thức chấp ngã quyết định. Mạt-na thức trong thần thức mới thực sự tương ứng với linh hồn theo quan niệm dân gian. Mà hễ chấp ngã thì tất nhiên là phải trôi lăn trong lục đạo luân hồi. Phá ngã chấp và pháp chấp mới đúng là tu hành chân chính theo Phật pháp.