"Bên trong thân xác bằng một sải tay mang đầy giác cảm này,
Như Lai xem đấy cũng chẳng khác gì như toàn thế giới,
sự hình thành của thế giới và cả con đường đưa đến sự chấm dứt của thế giới"
Lời Phật dạy
(Kinh Tăng Nhất A Hàm)
Tesam sampannasilanam
appamadaviharinam
sammadanna vimuttanam
Maro maggam na vindati.
Những người đạo hạnh
biết trau dồi sự cảnh giác,
để mang lại [Cho mình] sự hiểu biết đúng đắn,
[Thì] Ma Vương (Mara) nào có còn tìm thấy được con đường [Mà họ đang bước đi]
(Kinh Pháp Cú, Dhammapada, phẩm IV, tiết 57)
Đạo hạnh ở đây có nghĩa là: 1- ăn nói đúng, 2- hành động đúng, 3- sinh sống đúng. Cảnh giác có nghĩa là: 4- cố gắng đúng, 5- chú tâm đúng, 6- tập trung đúng. Hiểu biết đúng có nghĩa là: 7- suy nghĩ đúng, 8- hiểu biết đúng (Về bản chất của chính mình và của mọi hiện tượng trong thế giới). Đấy là Con Đường của Tám Điều Đúng Đắn (Bát Chánh Đạo). Đối với những người đã bước đi trên Con Đường ấy thì Ma Vương (Mara) tức là Thần Chết sẽ không còn tìm thấy được vết chân của họ nữa. Dù là họ đang bước thế nhưng bên trong họ tất cả đã đình chỉ và dừng lại, không còn một chút hận thù hay thèm khát nào, tư duy luôn ngay thật và minh bạch, sự quán thấy của họ về những gì hiển hiện trong tâm thức, xảy ra trên thân xác và cả những gì đang biến động chung quanh, lúc nào cũng sắc bén, chính xác và đúng đắn. Dòng tri thức của họ trở nên tinh khiết, trong sáng và yên lặng, không còn vướng một vết hằn nào của nghiệp: Đấy là cách giúp họ trở thành một vị A-la-hán.
Trong một tiết khác của Kinh Pháp Cú Đức Phật cũng có giảng như sau:
Yatha pubbulakam passe
yatha passe maracikam
evam lokam avekkhantam
maccuraja na passati.
Phải nhìn vào thế giới [Tương tự] như một bọt bong bóng,
như một ảo ảnh.
Nếu một người biết nhìn [Thế giới] như thế,
Thì Diêm Vương cũng sẽ chẳng trông thấy họ ở đâu cả.
(Kinh Pháp Cú, Dhammapada, phẩm XIII, tiết 170)
Bọt bong bóng biểu trưng cho vô thường và tánh không, ảo ảnh là những hình tướng không thật của hiện thực đang biến động trong thế giới. Thế giới thì nào có khác gì với năm thứ cấu hợp (Ngũ uẩn) tạo ra một cá thể con người. Tất cả cũng chỉ là ảo ảnh hay là sự trống không. Nếu nhìn năm thứ cấu hợp và cả thế giới chỉ là trống không thì Diêm Vương cũng sẽ không còn tìm thấy được một "Cái tôi" nào cả để mà hỏi tội.
Trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (Bằng tiếng Pa-li trong Kinh Trường A Hàm - Digha Nikaya), Đức Phật có nói như sau:
Anicca vata sankhara,
uppadavaya-dhammino;
uppajjitva nirujjhanti,
tesam vupasamo sukho.
Tất cả những gì phát sinh nhờ vào điều kiện đều phù du:
Bản chất của những thứ ấy là được hình thành để mà bị hủy hoại.
Khi đã hiện ra thì chúng cũng sẽ phải tan biến đi.
Không hiện ra, thì đấy mới thật là niềm phúc hạnh đích thật.
Câu trên đây có nghĩa là tất cả những gì hiện hữu nhờ vào nhiều điều kiện do các hiện tượng khác tạo ra tất sẽ phải biến mất khi nào các điều kiện ấy không còn hội đủ nữa. Không còn hiển hiện nữa tức là đạt được sự giải thoát cuối cùng và vượt thoát khỏi cái chết.
Một trong các nhà sư đương thời lỗi lạc nhất của Thái Lan là P.A. Payutto (Pháp danh Phra Bhramagunabhorn, sinh năm 1938) trong một quyển sách nhỏ "Dependent Origination - The Buddhist Law of Conditionality" (Buddhadhamma Foundation, Thailand, 1995) và trong chương III mang tựa đề là Con Người và Thiên Nhiên (Man and Nature) có giải thích về sự sống và cái chết của con người bằng cách nêu lên một khái niệm khá mới mẻ và đặc thù về sự hiện hữu của hai "Cái tôi" khác nhau. Theo ông không có một "Chủ nhân ông" thuộc bên trong hay bên ngoài nào để điều khiển tổng thể năm thứ cấu hợp (Ngũ uẩn) cả. Tổng thể ấy tự nó là một cơ sở vận hành đầy đủ và trọn vẹn. Sự vận hành của nó phù hợp và thích nghi với quy luật tạo tác do nguyên nhân mà có (Origine conditionnée / dependent origination / lý duyên khởi), quy luật này chi phối tổng thể năm thứ cấu hợp chuyển động theo một dòng luân lưu (Continuum) tự nhiên, dưới sự chi phối của các yếu tố tương liên và tương tác giữa các cấu hợp ấy với nhau. Tổng thể các cấu hợp ấy biểu trưng cho "Sự sống" và mang ba đặc tính là: vô thường (Aniccata), vô ngã (Anattata) và khổ đau (Dukkhata).
Tổng thể vận hành của năm thứ cấu hợp đó là một dòng luân lưu tự nhiên giữa nguyên nhân và các yếu tố tương liên (A natural continuum of interrelated determinants), thế nhưng phần đông con người đều tìm cách cưỡng lại dòng luân lưu tự nhiên ấy của mọi sự vật và tự nhận diện mình thuộc vào một trong hai khía cạnh của dòng luân lưu này và xem đấy là "Cái tôi" của mình. Nếu mọi sự trên dòng luân lưu xảy ra ngược lại với những tham vọng và thèm khát của họ thì chúng sẽ khiến cho họ bực bội, sự căng thẳng đó là cách càng mang lại thêm nhiều khổ đau hơn nữa cho họ. Hoặc nếu trên dòng luân lưu đó họ cảm thấy những gì sắp phải xảy ra cho "Cái tôi" của mình - chẳng hạn như bệnh tật và cái chết - thì họ sẽ cảm thấy tuyệt vọng và lo âu, và sự sợ hãi sẽ phát sinh thật sâu trong tâm thức của họ. Đấy là các thể dạng tâm thần phát sinh từ vô minh (Avijja).
Dòng luân lưu đó gồm có hai quá trình đối chọi nhau:
1- Quá trình tự nhiên của sự sống: Tức là sự diễn tiến tự nhiên của ba thể dạng là sự sinh (Jati), già nua (Jara) và chết (Marana).
2- Quá trình "Tạo dựng" (Contrived process) phát sinh từ sự nắm bắt và bám víu: Quá trình này sở dĩ xảy ra là do sự thiếu hiểu biết (Vô minh) về bản chất của sự sống. Sự thiếu hiểu biết hay vô minh ấy là nguyên nhân làm phát sinh ra "Cái tôi" và sự bám víu vào nó. "Cái tôi tạo dựng" ấy sẽ ngăn trở dòng luân lưu tự nhiên của mọi sự vật, đối nghịch lại với các quy luật thiên nhiên, và mang lại đầy lo âu và sợ hãi.
Xuyên qua hai quá trình đó người ta có thể hình dung ra hai cái tôi khác nhau:
- "Cái tôi quy ước": Là cái tôi thuộc vào dòng luân lưu tự nhiên của sự sống, thuận với các quy luật thiên nhiên (Tương liên, vô thường...). Có thể hình dung cái tôi này như là một dòng luân lưu (Continuum) cá biệt (Của một cá thể) khác với các dòng chảy khác (Của các cá thể khác).
- "Cái tôi tạo dựng": Là sản phẩm của vô minh tức là sự u mê tâm thần. Mỗi cá thể tự nhận diện mình xuyên qua cái tôi đó và bám víu vào đấy.
"Cái tôi quy ước" không tạo ra một sự khó khăn nào cả. Thế nhưng "Cái tôi tạo dựng" luôn nấp phía sau "Cái tôi quy ước" để mà bám víu vào nó, và chính vì thế nó phải hứng chịu các thể dạng biến đổi và vô thường của "Cái tôi quy ước" - chẳng hạn như già nua, ốm đau và cái chết - để mang lại cho nó mọi thứ khổ đau. Nếu sự bám víu của "Cái tôi tạo dựng" ấy được tháo gỡ bằng cách loại bỏ vô minh và sự hiểu biết, thì tất cả mọi khó khăn sẽ không còn nữa.
Cái chết chỉ là sự chấm dứt của tổng thể vận hành của năm thứ cấu hợp do các quy luật tương liên và nguyên-nhân-hậu-quả tạo ra và chi phối nó. Nếu một người tu tập xóa bỏ được "Cái tôi tạo dựng" đó thì có nghĩa là người này đã đạt được thể dạng A-la-hán, tức là niết-bàn. Thế nhưng niết-bàn ấy vẫn chưa phải là niết-bàn tuyệt đối và hoàn hảo và chỉ được gọi là "Niết-bàn còn vướng phần dư thừa" (Saupadidesa nibbana / hữu dư niết-bàn), bởi vì vị A-la-hán ấy vẫn còn mang thân xác cấu hợp tạo ra bởi nghiệp lực của mình từ trước. Khi nào vị A-la-hán này rời bỏ phần thân xác "Dư thừa" (Residue, remains / cặn bã, sự tồn dư) mà mình hiện đang có trong kiếp nhân sinh cuối cùng này, thì khi đó vị ấy mới thật sự hòa nhập vào "Niết-bàn hoàn hảo" (Parinibbana / bát niết-bàn) và không còn phải hiện hữu nữa, "Cảnh giới" niết-bàn đó còn được gọi là "Niết-bàn không còn phần dư thừa" (Anupadisena nibbana hoặc khandaparinibbana / vô dư niết -bàn).
Cũng xin lưu ý là đạt được thể dạng A-la-hán có nghĩa là đạt được sự giải thoát cho riêng mình. Do đó vị A-la-hán không có khả năng nào giúp mình cứu độ các chúng sinh khác. Tuy nhiên kinh sách Phật Giáo Theravada cũng có nêu lên trường hợp nếu một vị A-la-hán sau khi đã đạt được sự giải thoát, thế nhưng vì lòng từ bi thúc đẩy, quyết tâm không hòa nhập vào niết-bàn mà lưu lại thế giới luân hồi hầu có thể giúp đỡ các chúng sinh khác, thì vị A-la-hán ấy sẽ được gọi là một vị Bồ-tát.
Cái chết và sự giải thoát theo Kim Cương Thừa
Nếu Phật Giáo Theravada không chấp nhận sự hiện hữu của một giai đoạn chuyển tiếp giữa hai sự sinh, thì trái lại Kim Cương Thừa, còn gọi là Tan-tra Thừa hay Phật Giáo Tây Tạng, lại đặc biệt quan tâm đến giai đoạn trung gian này. Thật ra Kim Cương Thừa chú trọng đến tất cả các giai đoạn tiếp nối nhau trên dòng sinh diệt và gọi mỗi một giai đoạn như thế là một bardo (Tiếng Tây Tạng bardo có nghĩa là một sự chuyển tiếp / tiếng Phạn là antarabhâva). Bardo do đó không nhất thiết chỉ có nghĩa là giai đoạn trung gian hay chuyển tiếp xảy ra giữa hai sự sinh, mà còn được dùng để chỉ định bất cứ một giai đoạn chuyển tiếp nào xảy ra trong cuộc sống: Chẳng hạn như những lúc lắng vào giấc ngủ, bị hôn mê, hoặc khi não bộ bị chấn thương và không còn hoạt động được. Mỗi khi có một giai đoạn trung gian chấm dứt thì lại có một giai đoạn trung gian khác hiện ra sau đó, và cứ tiếp tục như thế. Tóm lại có hai bardo chính yếu là: "Bardo của sự sống" tức là giai đoạn biểu trưng cho cuộc sống thường nhật của một cá thể, và "Bardo của cái chết" tức là giai đoạn bắt đầu từ lúc các thành phần cấu hợp khởi sự tan biến cho đến khi chấm dứt giai đoạn hình thành đánh dấu bởi một sự sinh mới (Lúc tinh trùng kết hợp với noãn cầu). "Bardo của sự sống" cũng như "Bardo của cái chết" mỗi thứ lại được phân chia thành ba bardo thứ yếu. Tóm lại là có sáu bardo tất cả.
Ba "Bardo của sự sống" là:
- Bardo trong lúc tỉnh thức
- Bardo trong khi ngủ
- Bardo trong khi thiền định, tất nhiên là bardo này chỉ có thể hiện ra với một người hành thiền trong khi người này hòa nhập vào thể dạng trong sáng của trí tuệ.
Ba "Bardo của cái chết" là:
- Bardo của quá trình cái chết, tức là giai đoạn khởi sự xảy ra sự tan biến của năm thứ cấu hợp cho đến khi cái chết thật sự xảy ra (Xin lưu ý là cái chết thật sự theo Kim Cương Thừa được định nghĩa khác hơn với cái chết theo tiêu chuẩn y khoa).
- Bardo của thể dạng hiện thực, tức là giai đoạn bắt đầu sau cái chết thật sự tức là khi các khả năng của năm thứ cấu hợp (Ngũ uẩn) đã tan biến hết và dòng tri thức tinh tế tách rời khỏi thân xác, và tiếp tục cho đến khi chấm dứt giai đoạn này, có nghĩa là vào thời điểm trước khi tinh trùng phối hợp với noãn cầu.
- Bardo của sự hình thành là giai đoạn khởi sự từ lúc bardo của thể dạng hiện thực chấm dứt đến khi tinh trùng bắt đầu phối hợp với noãn cầu đánh dấu một sự sinh mới.
Trong khuôn khổ và chủ đích của bài viết này chúng ta chỉ đề cập đến quá trình bardo của cái chết, tuy nhiên cũng xin lưu ý là bardo của giấc ngủ cũng khá tương tự như bardo của cái chết. Tuy bardo của giấc ngủ khá đơn giản và không đầy đủ so với bardo của cái chết, thế nhưng bardo này có thể đảo ngược được (Reversible), tức có nghĩa là có thể "Tỉnh dậy" sau đó. Vì thế người tu tập theo Kim Cương Thừa thường sử dụng phép du-già thiền định để phân tích, tìm hiểu, theo dõi quá trình bardo của giấc ngủ để tập cho quen dần, hầu giúp mình ứng phó dễ dàng hơn khi cái chết thật sự xảy ra. Cũng xin lưu ý là bardo của giấc ngủ diễn tiến rất nhanh và do đó chỉ có những người luyện tập du-già thành thạo mới có thể theo dõi được.
Bardo trong lúc xảy ra cái chết gồm có hai giai đoạn "Tan biến" (Dissolution): Trước hết là sự tan biến bên ngoài (Người khác có thể quan sát và theo dõi được), đấy là sự tan biến của các khả năng cảm nhận của các cơ quan giác cảm trên thân xác, và sau đó là sự tan biến bên trong của dòng tri thức thuộc lãnh vực nội tâm (Ngoại trừ một số nhà sư cao thâm ra thì chỉ có người hấp hối mới cảm nhận được sự tan biến rất tinh tế này).
Giai đoạn tan biến thứ nhất liên quan đến quá trình tan biến của năm thành phần của vũ trụ là: Đất, nước, lửa, khí và không gian (Sinh khí). Khi thành phần đất (Chất cứng) tan biến (Nên hiểu tan biến ở đây có nghĩa là các thành phần mất đi khả năng của chúng, thí dụ thành phần đất tan biến thì đấy có nghĩa là thân xác không còn cử động được, mặc dù thành phần cứng của thân thể vẫn còn), người sắp chết sẽ cảm thấy thân xác nặng nề, không cử động được, không xoay trở được, dường như có một vật nặng đè lên người. Khi thành phần nước tan biến, các chất nhờn trở nên khô ráo (Các hạch bài tiết ngưng hoạt động), người hấp hối cảm thấy khát, tâm thần hoang mang và cảm thấy nhẹ bỗng và bồng bềnh, tương tự như bị một dòng nước cuốn trôi. Khi thành phần lửa tan biến, thân xác mất nhiệt và trở nên lạnh, người hấp hối khó thở, và sau đó sẽ mê man và không còn suy nghĩ được nữa. Tiếp theo đó đủ mọi thứ ảo ảnh sẽ hiện ra và các biến cố đủ loại trong cuộc sống vừa qua sẽ hiện về trong tâm thần người hấp hối, tương tự như một cuốn phim chiếu nhanh. Tuy nhiên đôi khi người hấp hối cũng có thể cảm thấy một thể dạng trong sáng lạ thường, chẳng hạn như một bầu không gian rạng ngời và an bình. Cũng bắt đầu từ giai đoạn này tim sẽ ngưng đập và phổi hết thở, tiếp theo đó não bộ bắt đầu suy thoái. Đây cũng là thời điểm đánh dấu cái chết theo tiêu chuẩn y khoa. Tuy nhiên chúng ta cũng thấy nhiều trường hợp một người đã chết theo tiêu chuẩn y khoa thế nhưng nhờ cứu cấp đôi khi cũng có thể hồi tỉnh được, và điều này cho thấy là các tiêu chuẩn y khoa không được chính xác và đầy đủ để xác định cái chết thật sự. Trong giai đoạn này (Tức là đã chết theo tiêu chuẩn y khoa) "Sinh khí" biểu trưng bởi "Không gian" trong cơ thể vẫn còn duy trì thêm được một thời gian nữa trước khi tan biến hết. Khi giai đoạn này chấm dứt thì dòng tri thức tinh tế cũng sẽ tách rời khỏi thân xác và sự kiện này sẽ đánh dấu cái chết thật sự theo tiêu chuẩn của Kim Cương Thừa.
Giai đoạn tan biến thứ hai là sự tan biến bên trong. Trong giai đoạn này năm thành phần cấu hợp thô thiển (Ngũ uẩn tạo ra môt cá thể) đã hoàn toàn mất hết khả năng, dòng tri thức tách rời khỏi năm thành phần ấy và trải qua một loạt các thể dạng khác nhau và sau cùng sẽ trở nên càng lúc càng tinh tế hơn. Đấy là sự "Tan biến tinh tế" của tri thức: Các thứ xúc cảm dần dần tan biến hết, trong khi đó thì hai thành phần tinh túy thừa hưởng của cha và của mẹ trước đây (Khi cá thể được thụ thai) sẽ hội nhập với nhau ở vị trí tim và cùng tan biến sau đó. Thành phần tri thức tinh tế, sau khi đã được giải thoát ra khỏi "Lớp vỏ cứng" tạo ra bởi những sự suy nghĩ quy ước và quen thuộc trước đây, sẽ nhờ đó để thể hiện được thể dạng nguyên sinh và tinh khiết nhất của nó, tức là một thể dạng rạng ngời và trống không gọi là "Ánh sáng trong suốt" của cái chết.
Thời điểm phát hiện "Ánh sáng trong suốt" là một thời điểm chủ yếu nhất đối với người luyện tập du-già, bởi vì người này có thể ý thức được bản chất trống không và Giác Ngộ của thể dạng đó để hòa nhập vĩnh viễn với nó. Đấy là cách giúp người luyện tập thoát khỏi chuỗi dài tái sinh bằng cách "Dừng lại" ở thể dạng tinh khiết nhất của "Bardo hiện thực" tức là thể dạng "Ánh sáng trong suốt". Tuy nhiên họ cũng có thể không hòa nhập với nó mà tự nguyện sẽ chuyển sang bardo tiếp theo để tái sinh trở lại hầu có thể giúp đỡ chúng sinh còn đang vướng mắc trong cõi luân hồi. Đối với những người luyện tập du-già cao thâm thì giai đoạn bardo của ánh sáng trong suốt trên đây có thể kéo dài nhiều ngày hoặc hàng tuần, đôi khi cũng có thể là hàng tháng. Trong thời gian này xác chết của họ vẫn giữ nguyên tình trạng tươi tốt không hư thối, chỉ sau khi họ đã hoàn toàn hòa nhập với ánh sáng trong suốt (Tức là tánh không tuyệt đối) thì khi đó xác chết của họ mới bắt đầu hư thối.
Những người bình dị tức không tu tập vẫn đạt được thể dạng ánh sáng trong suốt trên đây thế nhưng đối với họ thì thể dạng trung gian này xảy ra rất ngắn và chỉ kéo dài trong khoảng vài giờ đến ba ngày là cùng. Sau khi giai đoạn hiển hiện của ánh sáng trong suốt trên đây chấm dứt thì họ sẽ rơi vào một tình trạng hôn mê và cũng sẽ tỉnh lại ngay sau đó trong một bardo khác, gọi là bardo của sự hình thành. Trong bardo này tri thức của người quá cố sẽ được hồi phục, thế nhưng họ có cảm giác như mình đang sống trong một giấc mơ. Thế nhưng thật ra họ đã hoàn toàn rời khỏi xác chết trước đây của mình và đang mang một "Thân xác" mới thật tinh tế (Có thể hình dung như thân xác chiêm bao trong giấc ngủ). Trong giai đoạn hình thành và mang một thân xác tinh tế - tức chưa phải là thân xác thật sự thuộc bardo của sự sinh sắp xảy ra - thì đủ mọi thứ ảo giác khiếp đảm sẽ hiện lên với họ, thí dụ như nhưng tiếng nổ long trời, những hố sâu đen ngòm, những đàn thú dữ gầm thét..., những ảo giác ấy là hậu quả phát sinh từ nghiệp của họ. Nói chung họ phải chịu nhiều khổ đau và gian truân trước khi tìm được một tử cung phù hợp với nghiệp của mình để tái sinh. Dù sao thì thời gian này cũng chỉ kéo dài tối đa bốn mươi chín ngày, tuy nhiên cũng có giả thuyết cho rằng bardo của sự hình thành có thể kéo dài lâu hay mau là tùy thuộc vào nghiệp của mỗi cá thể, và cũng có giả thuyết cho rằng "Ngày" trong giai đoạn bardo này không nhất thiết phải tương tự như "Ngày" trong "Cảnh giới" của chúng ta.
Tóm lại Kim Cương Thừa đặc biệt quan tâm đến "Quá trình vĩ mô" của sự sống và cái chết bằng cách phân chia quá trình này thành nhiều bardo khác nhau. Riêng "Bardo về cái chết" được đặc biệt mô tả thật chi tiết nhờ vào kết quả mang lại từ phép luyện tập gọi là du-già thiền định. Đồng thời Kim Cương Thừa cũng mô tả "Quá trình vi mô" diễn tiến song hành với quá trình vĩ mô như trên đây qua những sự tan biến và hình thành trên dòng tri thức. Tính cách "Lô-gic" trong quan điểm về cái chết của Kim Cương Thừa được căn cứ vào sự quan sát và các kinh nghiệm cảm nhận trực tiếp nhờ vào thiền định. Người hành thiền cao thâm có thể "Hình dung" hay "Tạo ra" một cái chết giả tưởng để theo dõi và phân tích. Nói chung là Kim Cương Thừa chú trọng đến cả hai quá trình "Vi mô" và "Vĩ mô" và mô tả tỉ mỉ sự vận hành chung của hai quá trình này.
Tóm lại đối với Kim Cương Thừa cái chết là một dịp giúp người tu tập tự giải thoát khỏi vòng xoay vần bất tận của luân hồi. Cũng xin lưu ý là Kim Cương Thừa không phải chỉ hướng vào bardo của cái chết để tìm sự giải thoát cuối cùng, mà đúng hơn chủ đích tu tập của tông phái này là phải thành Phật ngay trong kiếp sống hiện tại, hoặc trong một hay hai kiếp sống sau đó. Nếu không đủ khả năng để thành Phật ngay trong kiếp nhân sinh này thì cũng có thể nhờ vào giai đoạn bardo của ánh sáng trong suốt của cái chết để hoà nhập với tánh không như vừa trình bày trên đây.
Cái chết và sự giải thoát theo Thiền Học
"Tại nơi này và ở thời điểm này" là một câu có thể biểu trưng cho toàn bộ cốt lõi của tông phái Thiền Học. "Tại nơi này và ở thời điểm này" là cách "Cắt đứt" quá khứ và "Chận đứng" vị lai, nói cách khác là làm "Dừng lại" mọi sự vận hành nhị nguyên của tâm thức. Đây là phương cách mà Thiền Học sử dụng để "Hoá giải" các quy luật tương liên (Pratityasamutpada), vô thường (Anitya) và nhân quả (Karma). Nguyên tắc căn bản của Thiền Học là không có bất cứ gì để nắm bắt, để tìm hiểu hay là để nhận thức mà chỉ cần "Sống" thật đơn giản với những gì hiển hiện ra với mình, dù đấy là sự sinh tồn hay cái chết, nói một cách khác là phải hòa nhập với Thực Tại. Sở dĩ con người quá sợ hãi cái chết chẳng qua là vì họ đã tự tạo ra cho mình đủ mọi thứ tưởng tượng nhị nguyên và đối nghịch, khiến họ bị rơi trệch ra bên ngoài Hiện Thực. Tìm đủ mọi phương cách để trực tiếp đối đầu với cái chết không phải là cách ứng phó hữu hiệu nhất với nó mà đúng hơn phải làm tan biến mọi sự tưởng tượng trong trí của chính mình.
Có một vị thiền sư và một người đệ tử cùng tham dự một đám táng, người đệ tử trỏ xác chết của người quá cố và hỏi vị thầy: "Thế hắn đang sống hay đã chết?" Vị thầy trả lời: "Ta không sao trả lời mi được, bởi vì chính ta cũng không biết" (Câu chuyện do thiền sư J.P. Faure kể trong một buổi phát sóng hàng tuần về Phật Giáo vào ngày 5 tháng 3, năm 2000 trên đài truyền hình quốc gia Pháp, do đó cũng không rõ vị thầy tên gì và nguồn gốc câu chuyện thuộc vào tài liệu nào). Vị thầy không đứng vào vị trí của quá khứ mà cũng chẳng đặt mình vào vị thế của tương lai, ông không thắc mắc những gì đã xảy ra trước đó với người quá cố và cũng không tưởng tượng những gì sẽ xảy đến với hắn trong tương lai. Nếu tự tách mình ra khỏi quá khứ và cũng không hướng mình vào tương lai thì mình cũng sẽ chẳng thấy sự sống hay cái chết của người khác cũng như của mình ở đâu cả.
Tất cả mọi công án của Thiền Học đều nhằm vào một mục đích duy nhất là tìm cách chận đứng tất cả mọi tư duy mang xu hướng quay nhìn về quá khứ hoặc hướng vào tương lai, cũng như mọi sự suy luận và tính toán, nói một cách đơn giản là không tưởng tượng gì cả. Đối với Phật Giáo tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều biến động và đổi thay, không ngoại trừ bất cứ một thứ gì: Từ một hạt bụi, một quả núi, một lục địa cho đến một hành tinh, tất cả đều đang "Hình thành" hoặc "Thoái hóa" trong từng giây phút một. Trong tâm thức con người tư duy và xúc cảm cũng biến đổi không ngừng. Sự sống và cái chết cũng thế, cũng đều vô thường như nhau, không nên tách rời sự sống với cái chết, không phải chỉ có cái chết mới vô thường. Tất cả những gì hiện ra đều biến đi, chính vì thế nên tất cả đều là vô-thực-thể, kể cả cái chết. Nếu nhìn thấy chúng là thật thì tức khắc chúng sẽ hóa thành nguồn gốc mang lại khổ đau. Nếu ý thức được là chúng không có một thực-thể nào cả thì đấy sẽ là cách giúp mình quán thấy được Sự Thật Tối Hậu của mọi sự vật, tức là tánh không, là niết-bàn.
Những gì vừa trình bày trên đây cho thấy Thiền Học luôn chú tâm vào việc "Ứng phó" với thời gian mà không tìm cách "Đối đầu" với cái chết. Tách rời ra khỏi quá khứ cũng như tương lai là một cách giải quyết tận cội rễ của mọi sự vướng mắc. Thế nhưng thời gian là gì? Câu hỏi này có thể được nêu lên một cách khá bất ngờ đối với người đọc, bởi vì có ai mà chẳng biết thời gian là gì: Chẳng phải là ngày hôm nay khác với ngày hôm qua hay sao? Thế nhưng trên thực tế cho đến nay chưa có một khoa học gia, một triết gia, một tư tưởng gia hay một nhà bác học nào có thể giải thích được bản chất của thời gian là gì! Chúng ta trông thấy mặt trời mọc buổi sáng và lặn vào buổi chiều, thế nhưng thật ra mặt trời không mọc mà cũng không lặn, đấy là vì địa cầu quay chung quanh nó để tạo ra ngày và đêm. Trục quay của địa cầu cũng làm thay đổi độ nghiêng để tạo ra mùa màng. Chúng ta đồng hóa tất cả những thứ ấy với thời gian. Trong toán học và vật lý học có một hệ số hay yếu tố biểu trưng cho thời gian, thế nhưng thực sự hệ số hay yếu tố ấy là gì? Sở dĩ kim đồng hồ quay ấy là nhờ vào lò xo hoặc vào sự "Nhấp nháy" của một transitor, thời gian không làm cho kim đồng hồ quay được. Cho đến nay chưa có ai hiểu được thời gian là gì mà chỉ biết đồng hóa thời gian với một sự chuyển động mà thôi, và chỉ đơn giản có thế. Thân xác và tâm thức một cá thể luôn chuyển động, do đó thời gian cũng ẩn chứa một cách tự tại bên trong thân xác và tâm thức của cá thể đó. Sự chuyển động ấy của thời gian chính là "hệ số" quan trọng nhất chi phối sự sống và cái chết của mỗi cá thể. Cũng xin mượn dịp này để tóm lược ra đây một vài lời giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma về quan điểm của Phật Giáo đối với thời gian. Ngài cho biết rằng một học phái xưa là Kinh Lượng Bộ (Sautrantrika) quan niệm rằng mọi hiện tượng và biến cố chỉ hiện hữu trong hiện tại. Quá khứ và vị lai chỉ mang tính cách khái niệm, đấy chỉ là những tạo dựng đơn thuần của tâm thức. Đối với học phái Trung Quán Cụ Duyên Tông (Madhyamika-prasangika / một chi phái của Trung Quan Tông) thời gian chỉ mang tính cách tương đối, và chỉ là một thực thể trừu tượng tạo dựng bởi tâm thức dựa vào sự "Xảy ra liên tục" (Continuity) của một biến cố hay một hiện tượng. Do đó không thể nào xem thời gian như là một thực thể tự chủ (Entité autonome / autonomous entity) độc lập với sự hiện hữu của một vật thể, tức có nghĩa là thời gian không thể nằm bên ngoài vật thể ấy được. Trên phương diện triết học thời gian chỉ là một khái niệm lệ thuộc vào sự liên tục (Continuum) của các hiện tượng.
Thiền Học được hình thành từ thế kỷ thứ VI và kể từ đó đã có không biết bao nhiêu vị thầy lỗi lạc kế tiếp nhau xuất hiện để triển khai học phái này, thế nhưng phải chờ đến thế kỷ XIII mới thấy xuất hiện một vị thiền sư khác thường và ngoại hạng là Đạo Nguyên (Dôgen, 1200-1253). Ông là một triết gia lớn của nước Nhật và cũng là một trong số những nhà tư tưởng lỗi lạc nhất trong lịch sử Phật Giáo. Thiết nghĩ có thể xem ông ngang hàng với Long Thụ (Nagarjuna) ở thế kỷ thứ II và Vô Trước ở thế kỷ thứ IV. Đấy là ba cột trụ to lớn và vững chắc nhất của triết học Phật Giáo. Tập Chánh Pháp Nhãn Tạng (Sôboghenzô) của ông là tập luận giải đồ sộ nhất và quan trọng nhất của Thiền Học. Có thể nói là hầu như toàn bộ tập luận này đều trực tiếp hay gián tiếp hướng vào chủ đích phân tích, tìm hiểu và khắc phục thời gian. Theo ông người ta có thể nhìn thấy được toàn thể vũ trụ trong một hạt bụi, tất nhiên là với điều kiện phải thấu triệt được bản chất của hạt bụi là gì. Thời gian cũng thế, cũng chỉ có thể xác định được dưới một hình thức "Khẳng định" hay "Quyết định" (A determination) nào đó gọi là một "Khoảnh khắc" (An instant), có nghĩa là thời gian không thể xác định được bên ngoài một khoảnh khắc. Khái niệm về một sự tiếp nối liên tục giữa quá khứ/ hiện tại/ tương lai là một sự lầm lẫn hoàn toàn. Chỉ có "Giây phút" xảy ra trong một khoảnh khắc là thật mà thôi. Do đó, mỗi khoảnh khắc dù ngắn cách mấy đi nữa cũng biểu trưng cho toàn thể thời gian, không cần phải có một khoảnh khắc khác tiếp nối với nó, tương tự như một hạt bụi cũng có thể biểu trưng cho toàn thể thế giới trong thí dụ trên đây. Cũng xin ghi chú thêm là quan điểm của ông về thời gian mang nhiều khía cạnh gần với ngành Vật Lý Lượng Tử ngày nay và đã làm cho nhiều nhà vật lý phải thán phục. Trên phương diện triết học thì quan điểm của ông cũng rất gần với chủ thuyết hiện sinh (Existentialism) và tư tưởng của một số triết gia cận đại của Tây Phương như: M. Heidegger (1889-1976), J.P. Sartre (1905-1980), M. Merleau-Ponty (1908-1961), v.v...
Khoảnh khắc xảy ra "Tại nơi này và ở thời điểm này" phát sinh từ quá khứ, bao hàm và cất chứa toàn thể quá khứ kể từ lúc khởi thủy của thời gian, thế nhưng đồng thời khoảnh khắc xảy ra "Tại nơi này và ở thời điểm này" cũng lại là một nhân tố có thể làm biến đổi được cả tương lai. Do đo đó dừng lại "Tại nơi này và ở thời điểm này" chính là cách tạo ra một tiềm năng rất lớn có thể hóa giải được cái chết. Nói một cách cụ thể và đơn giản hơn là trong từng khoảnh khắc chúng ta phải buông xả hay buông bỏ tất cả, phải thật chú tâm vào những giây phút của hiện tại. Một mặt phải xả bỏ những hối tiếc của quá khứ, một mặt không tính toán hay cân nhắc gì cả về tương lai. Đấy chính là phép luyện tập để ứng phó với sự sống và cái chết theo học phái Thiền Học. Phải chấp nhận rằng một khoảnh khắc dù là mới xảy ra đi nữa thì nó cũng đã đi vào quá khứ và sẽ chẳng bao giờ quay trở lại. Tất cả những gì thuộc quá khứ sẽ mãi mãi là quá khứ, hiện thực chính là "Tại nơi này và ở thời điểm này". Nếu muốn giúp mình có thể sống trong khoảnh khắc của hiện tại thì phải loại bỏ tất cả mọi thứ tưởng tượng ô nhiễm nhằm ngăn cách mình với hiện thực và tách rời mình ra khỏi sự vận hành của vũ trụ. Vậy thì những thứ tưởng tượng ô nhiễm ấy là gì? Thật hết sức đơn giản, đấy là những tư duy mang bản chất bám víu. Một mặt chúng khiến cho ta cứ mãi mê hối tiếc quá khứ, một mặt thì chúng lại thúc đẩy ta tìm đủ mọi cách để nắm bắt tương lai! Tóm lại Thiền Học chủ trương sự giác ngộ phải đạt được "Tại nơi này và ở thời điểm này" có nghĩa là trong kiếp sống này, trong ngày hôm nay, ở thời điểm mà người viết "Đang" viết những dòng chữ này và người đọc cũng "Đang" đọc những dòng chữ này.
Mặc dù cách trình bày trên đây đã khá cụ thể và đơn giản thế nhưng cũng vẫn còn khá lý thuyết. Vậy phải làm thế nào để sống và để chết "Tại nơi này và ở thời điểm này"? Ngoài phép "Tọa thiền" (Zazen) còn gọi là "Ngồi thiền" ra thì không còn có cách nào khác hơn. Tọa thiền theo Thiền Học là ngồi yên để tập trung tâm thần cực mạnh hướng vào thân xác và hơi thở, sự tập trung đó sẽ giúp cho tâm thức lắng xuống, không còn chạy theo để đuổi bắt các tư duy và xúc cảm liên tiếp hiện lên trong đầu để quấy rối mình nữa. Đấy là cách giúp mình dừng lại "Tại nơi này và ở thời điểm này". Cảm nhận và thực hiện được thời gian vô biên trong từng khoảnh khắc một là cách tiếp cận tốt nhất với sự sống và cả cái chết, tức là cách không để cho khoảnh khắc hiện tại đang xảy ra biến thành bất cứ một sự phóng tưởng nào. Khoảnh khắc hiện tại tự nó đã là một sự viên mãn, tràn đầy và tuyệt đối, không cần phải ghép thêm vào đấy một sự tưởng tượng nào nữa.
Dù sao cũng phải hiểu rằng tọa thiền (Zazen) không phải là cách nhằm tạo ra một thể dạng "Phẳng lặng" nào cả. Điều đó không thể thực hiện được, bởi vì tư duy và xúc cảm luôn chuyển động, tâm thức thường xuyên ở trong một tình trạng chuyển đổi liên tục: Có lúc ta cảm thấy khổ đau, có lúc tham dục dấy lên, có lúc sợ hãi xâm chiếm toàn bộ tâm thức mình, thế nhưng cũng có lúc hiện lên sự thanh thoát và trong sáng. Tọa thiền là cách giúp chúng ta quán thấy và ý thức được quy luật vô thường đang chi phối bên trong tâm thức của chính mình. Thế nhưng tọa thiền đồng thời cũng là cách giúp chúng ta không tự nhận diện mình với những thể dạng vô thường ấy để có thể quay về với bản chất đích thật của chính mình. Quán nhìn vào thân xác và từng hơi thở là một cách giúp mình ý thức được bản chất vô thường của chúng hầu mang lại cho mình một thể dạng an bình hơn. Cứ mỗi lần quay trở lại với thân xác và hơi thở là mỗi lần chúng ta tạo ra cho mình một thể dạng tâm thức mới, tươi mát và thanh thoát, vượt thoát khỏi sự chi phối của tư duy và các xúc cảm bấn loạn, tức là các thứ tưởng tượng rơi ra bên ngoài hiện thực. Thể dạng mới mẻ và tươi mát đó của tâm thức hiện ra mỗi khi chúng ta quay về với thân xác và hơi thở của mình chính là thể dạng niết-bàn.
Nếu thể dạng ấy xảy ra càng thường xuyên hơn thì niết-bàn cũng sẽ trở nên càng vững vàng hơn. Xao động hay an bình thì cũng chỉ là hai thể dạng tâm thần, cõi luân hồi hay niết-bàn thì cũng chỉ là hai thể dạng của tâm thức, tương tự như một tấm màn ảnh chiếu phim: Một bên hiện lên đủ mọi thứ hình ảnh linh động, một bên chẳng có gì cả. Thế nhưng thông thường một số người tu hành lại không hiểu như thế, bởi vì một mặt thì họ kinh sợ thế giới luân hồi, một mặt thì ước mong phải đạt cho bằng được cõi niết-bàn. Sự ước mong đó tất sẽ tạo ra một sự ham muốn, và ham muốn hay ước vọng (Aspiration) đều sẽ chuyển thành thèm khát (Desire) thật dễ dàng. Thèm khát chính là nguyên nhân sâu xa nhất đưa đến sự tái sinh. Như thế có phải là ước vọng thực hiện được niết-bàn lại trở thành cách hướng vào thể dạng đối nghịch với nó hay không? Đấy chẳng khác gì như đi tìm ngôi sao Bắc Đẩu bằng cách hướng nhìn về phương Nam. Một khi đã quán thấy được bản chất đích thật của cõi luân hồi không mang một thực thể nào cả - có nghĩa là sự sống này và cả sự biến mất của nó cũng chỉ là vô thường - thì khi đó ta sẽ buông bỏ chúng một cách thật dễ dàng. Thế nhưng buông bỏ chúng lại là cách mở ra cho ta cánh cửa của niết-bàn.
Tóm lại sự chú tâm thật hết sức quan trọng. Nếu chú tâm thật mạnh vào thân xác và hơi thở thì chúng ta cũng sẽ buông xả cho tư duy và mọi thứ xúc cảm trong đầu trôi đi dễ dàng hơn. Nếu sức chú tâm càng mạnh thì nó lại càng khiến cho mọi thứ tưởng tượng tan biến đi nhanh chóng hơn và càng giúp cho sự buông xả được dễ dàng hơn. Thế nhưng bản chất của sự buông xả thật sự là gì? Đấy là trí tuệ! Buông xả là một thể dạng quán thấy sâu xa giúp mình nhận biết được tất cả những gì mà mình đang bám víu không mang một thực thể nào cả: "Cái tôi" và cái "Của tôi" - tức "Cái ngã" - là vô thường, thân xác, tư duy và xúc cảm là vô thường, sự sống và cái chết là vô thường. Không có bất cứ thứ gì đáng để mình bám víu vào đấy. Buông xả không phải là một sự cố gắng, bởi vì càng cắn răng nhịn nhục và chịu đựng để buông xả thì lại là cách càng gây ra nhiều khổ đau cho mình hơn.
Buông xả phải là một thể dạng tự nhiên phát sinh từ trí tuệ. Thế nhưng trí tuệ không nhất thiết là thể dạng tâm thức chỉ có thể hiện ra trong khi tọa thiền (Zazen) mà phải làm cho nó hiện ra bất cứ lúc nào trong cuộc sống thường nhật để phát huy và duy trì nó. Điều ấy có nghĩa là không được xao lãng và đánh mất một giây phút nào trong cuộc sống. Khi nhìn vào một người tu thiền chúng ta sẽ thấy ngay là họ lúc nào cũng có vẻ thanh thoát, tĩnh lặng và nhàn nhã, thế nhưng thật ra bên trong họ tàng ẩn một sức mạnh khác thường phát sinh từ sự chú tâm cực mạnh của họ, giúp họ xả bỏ được rất nhiều những gì mà người khác bám víu. Nhờ không bám víu nên phong thái của họ trở nên thật thanh thản. Nếu biết chú tâm trong từng khoảnh khắc đang xảy ra "Tại nơi này và ở thời điểm này" cho đến những khoảnh khắc cuối cùng khi cái chết xảy đến với mình, thì cái chết cũng sẽ chẳng gây ra cho mình một chút tai hại hay bấn loạn nào cả.
Tóm lại là Thiền Học không quan tâm đến "Quá trình vi mô" và cả "Quá trình vĩ mô" của sự sống và cái chết như đã được trình bày trên đây, mà trái lại chỉ hướng vào việc tìm hiểu sự vận hành của tâm thức nhằm giúp tâm thức quay về với thể dạng nguyên sinh và tinh khiết nhất của nó hầu giúp nó thích ứng và hoà nhập với hiện thực và để trở thành hiện thực. Thế nhưng nếu suy xét thật kỹ thì đấy cũng chính là cách dừng lại để sống với từng đơn vị của dòng tri thức, tức là không tiếp nhận những gì từ đơn vị trước đó chuyển sang cho nó, cũng không chuyển sang cho đơn vị xảy ra sau đó những gì mà nó hiện đang có. Đó cũng là sự "Đình chỉ" mô tả trong phép tu tập của Phật Giáo Theravada và cũng là sự hòa nhập vào ánh sáng trong suốt nêu lên bởi phép thiền định du-già của Kim Cương Thừa.
Để chấm dứt phân đoạn này xin mạn phép kể ra đây câu chuyện về cái chết của một thiền sư Nhật Bản là Suzuki Shosan. Sinh năm 1579 trong một gia đình võ sĩ đạo (Samurai), ông phục vụ cho vị tướng quân Shogun Tokugawa Ieyasu, lãnh đạo một bộ tộc hùng mạnh. Ông cũng đã từng tham dự nhiều trận chiến thật khốc liệt. Thế nhưng đến năm 1620 khi vừa bước vào tuổi 41, một cái tuổi có thể xem là già dặn, thì ông chán ngán việc binh bị và xuất gia tu thiền. Ông không thích cuộc sống cố định và nhất là ông rất ghét các tổ chức mang tính cách giáo phái nơi chùa chiền cùng các lối sinh hoạt tập thể của tăng đoàn. Do đó ông đã chọn một cuộc sống phiêu bạt, ngao du hết chùa này sang chùa khác. Ông thuyết giảng khắp nơi, thu nhận đồ đệ và cũng viết lách khá nhiều. Theo quan điểm của ông thì Phật Giáo không phải là một tín ngưỡng lý thuyết mà chỉ là một phong cách sống: Đối với người chiến binh thì Phật Giáo là Con Đường của người chiến binh, đối với người nông dân thì Phật Giáo là Con Đường của người nông dân, đối với một nghệ nhân thì Phật Giáo là Con Đường của người nghệ nhân, đối với người buôn bán thì Phật Giáo là Con Đường của người buôn bán..., đơn giản chỉ có thế. Riêng đối với ông với tư cách là một người chiến binh thì điều quan trọng hơn hết là "Phải nhìn thẳng vào cái chết, phải thấu hiểu cái chết là gì". Đối với ông toàn bộ giáo lý Phật Giáo cũng chỉ có thế.
Mùa xuân năm 1655, ông ngã bệnh và người ta cho ông biết là bệnh tình của ông rất trầm trọng. Ông đáp lại rằng điều ấy chẳng quan hệ gì, bởi vì ông đã chết từ hơn ba mươi năm rồi - tức là từ khi ông bắt đầu xuất gia. Khi tình trạng bệnh tình trở nên nguy kịch, các đệ tử thân tín quay quần chung quanh giường ông nằm. Một người cất lời xin ông ban cho họ một "Lời cuối cùng", tức thời Shosan trợn mắt nhìn người này và thét lên: "Mi nói gì đấy? Những gì mi vừa thốt ra cho thấy rằng mi chẳng hiểu gì cả về những lời giảng của ta từ ba mươi năm nay. Hãy mở mắt ra mà nhìn, thật là đơn giản, ta đang chết đây này, và chỉ có thế thôi". Soshan mất ngày 25 tháng 6, năm 1665, thọ 76 tuổi.
Lời kết
Trong Trường Bộ Kinh Đức Phật có căn dặn các đệ tử của mình như sau:
"Này các tỳ-kheo, cũng có thể là các người tu hành không gia cư thuộc các giáo lý khác với giáo lý của chúng ta sẽ hỏi các người rằng: Một Đấng Như Lai (Tathagata) có còn hiện hữu sau khi chết hay không? [...], thì khi đó các người phải trả lời với họ như thế này: 'Này các bạn, điều ấy vị Giác Ngộ không hề nêu lên [...] bởi vì điều ấy không mang lại sự an vui, không mang lại Đạo Pháp đích thật, không giúp chấm dứt sự thèm khát, không mang lại sự an bình, sự đình chỉ, trí tuệ, sự giác ngộ và niết-bàn [...]. Những gì vị Giác Ngộ nêu lên chỉ là Bốn Sự Thật liên quan đến khổ đau, sự chấm dứt của khổ đau và con đường đưa đến sự chấm dứt ấy' ".
(Digha Nikaya, III, 135, dịch theo bản tiếng Pháp của Liliane Silburn trong quyển Aux Sources du Bouddhisme, Fayard, 1977, trang 70).
Những lời dặn dò và chỉ bảo của Đức Phật trên đây cho thấy hai khía cạnh nổi bật: Thứ nhất là khía cạnh thiết thực của Đạo Pháp, thứ hai là còn thật nhiều điều không "Thiết thực", hay ít ra cũng không "Cần thiết" để nói lên vào thời đại của Ngài, chẳng hạn như những gì bên trong và phía sau cái chết.
Đạo Pháp do Đức Phật nêu lên luôn luôn mang tính cách thực dụng, minh bạch, hướng vào chủ đích giúp con người hóa giải những nỗi thống khổ mênh mông của họ trong kiếp nhân sinh này của họ. Những lời giảng huấn của Ngài thật thâm sâu nhưng luôn minh bạch và chính xác giúp cho mọi người đều có thể hiểu được và thực hiện được. Căn bản của Đạo Pháp là Bốn Sự Thật Cao Quý, và phép tu tập là "Con Đường Gồm Tám Điều Đúng Đắn". Suốt trong bốn mươi lăm năm thuyết giảng Ngài cũng chỉ khai triển căn bản giáo lý ấy. Tuy nhiên Ngài cũng có nêu lên một số khái niệm siêu hình thật chủ yếu chẳng hạn như các khái niệm: Không có "Cái tôi" và "Cái của tôi" (Vô ngã), sự kiện tương liên và tương tạo giữa các hiện tượng (Lý duyên khởi), bản chất cấu hợp của cá thể con người (Ngũ uẩn), sự vận hành của tâm thức, v.v. Thế nhưng Ngài cũng chỉ nêu lên các khía cạnh thực dụng và thật cụ thể của các khái niệm này, tức là những gì thật thiết yếu giúp người tu tập thấu triệt được dễ dàng hơn căn bản Đạo Pháp do Ngài đưa ra.
Thế nhưng sự dừng lại ấy của Đức Phật với những gì thiết thực không hề là một sự bế tắc mà đúng hơn là cách mở ra một cánh cửa giúp cho các vị đại sư sau này diễn đạt thêm những gì mà Ngài không giải thích hết. Những diễn đạt mới cũng chỉ là một cách thích ứng của Đạo Pháp với sự tiến hóa của xã hội và những đòi hỏi đa dạng của con người vào những thời đại sau này. Đó cũng là một trong những cách hiểu về sự da dạng của Phật Giáo và các quan điểm khác nhau về sự sống cũng như cái chết. Sự mở rộng đó có thể là một trong những nguyên nhân giúp cho Đạo Pháp không hề bị khô cằn và bế tắc. Tuy rằng có nhiều tông phái và học phái khác nhau được phát sinh và chủ trương nhiều quan điểm khác nhau, thế nhưng tất cả cũng vẫn là Phật Giáo. Một người tu tập theo Phật Giáo Đại Thừa viếng thăm một xứ theo Phật Giáo Theravada sẽ không hề cảm thấy mình xa lạ và lạc lõng.
Một số các tôn giáo độc thần tuy mang ít nhiều bất đồng chính kiến với nhau thế nhưng lại đồng loạt đưa ra một giải pháp giống nhau trước cái chết. Trong khi đó Phật Giáo tuy chỉ là tôn giáo duy nhất thế nhưng lại đưa ra rất nhiều giải pháp khác nhau cho các tín đồ của mình. Phật Giáo không xem sự sống và cái chết của một cá thể là duy nhất, cái chết không phải là một định mệnh, cũng không tùy thuộc vào ý chí của một Đấng Tối Cao nào cả, và cũng không phải là một sự bất lực của con người, bởi vì mỗi con người có thể chủ động được sự sống và cái chết của họ nhờ vào sự tu tập. Đối với những người tuy "Theo Phật Giáo" thế nhưng chưa hề biết tu tập là gì, thì giáo lý nhà Phật cũng có thể giúp họ hiểu rằng sự sống và cái chết nằm chung trong sự vận hành của thế giới hiện tượng, và do đó cũng là những hiện tượng tương tự như những hiện tượng khác. Nếu đã là hiện tượng thì tất cả cũng đều tương kết với nhau, thúc đẩy nhau để cùng chuyển động phù hợp với những quy luật chung của vũ trụ. Thiết nghĩ cách nhìn đó là một cách nhìn hết sức linh động, tự nhiên và không bế tắc về sự sống và cái chết. Bất cứ ai cũng đều có thể tạo cho mình cách nhìn thanh thản và tự nhiên đó hầu giúp mình ứng phó với sự sợ hãi có thể xảy ra trước "Định mệnh" của mình. Thiết nghĩ quan điểm này có thể được tóm lược qua hai câu thơ Đường sau đây của nhà thơ Vương Duy (701-761):
"Đi đến chốn tận cùng nơi con suối đã cạn,
Ngồi xuống và chờ những áng mây bay lên."
(Trích dẫn của François Cheng trong quyển: Entre Source et Nuage, 1990, Spiritualtés Vivantes, Albin Michel. Vì không tìm được bài thơ gốc của Vương Duy nên tạm dịch hai câu thơ này của ông trong quyển sách trên đây do François Cheng đã dịch sang tiếng Pháp)
Thế nhưng một người biết tu tập sẽ vượt xa hơn cách nhìn mở rộng trên đây, có nghĩa là họ không tự an ủi trước "Định mệnh", cũng không xem cái chết là một sự "Bất lực", mà luôn tìm cách phát huy sức mạnh, lòng từ bi và trí tuệ của mình hầu giúp mình không những vượt qua những giây phút khó khăn nhất của đời mình một cách thanh thản mà còn tìm cho mình một sự giải thoát khỏi tất cả mọi vướng mắc và khổ đau một cách thiết thực nhất, nói một cách khác là đạt được sự giác ngộ ngay trong kiếp sống này. Và đấy cũng là chủ trương của cả ba tông phái là Phật Giáo Theravada, Kim Cương Thừa và Thiền Học như đã được trình bày trên đây.
Nếu hình dung cái chết như là một bức tường chận đứng sự sống, thì con người cũng chỉ còn biết úp mặt vào đấy để tưởng tượng ra môt thế giới khác ở phía bên kia bức tường, một thế giới vĩnh hằng, bất diệt, tràn đầy hạnh phúc và an vui, hoặc nói một cách bình dân hơn là một thế giới đầy hoa thơm cỏ lạ, tất cả mọi thứ đều làm bằng châu báu ngọc ngà. Đối với Phật Giáo sự sống và cái chết nằm ở bên này bức tường, kể cả thế giới luân hồi và niết-bàn. Nếu chúng ta sống và chết theo cách của một vị A-la-hán có nghĩa là sẽ bỏ lại phần thân xác dư thừa này lần cuối, hay chết theo cách của một người luyện tập du-già là hòa nhập vĩnh viễn với ánh sáng trong suốt của cái chết, hay là chết một cách thật giản dị và hồn nhiên như vị thiền sư Suzuki Shosan "Tại nơi này và ở thời điểm này" thì tất cả cũng đều chết ở phía bên này của bức tường.
Ngay cả đối với những người tu tập theo Tịnh Độ thì Tây Phương Cực Lạc cũng ở bên này của bức tường. Việc tu tập của họ không phải là một sự chờ đợi, mà đúng hơn phải tích cực, có nghĩa là phải thệ nguyện cứu độ chúng sinh sau khi thành Phật, tương tự như trước đây đã từng có một vị Bồ-tát thệ nguyện như thế và đã trở thành Đức Phật A-di-đà. Việc tu tập còn gọi là "Bước vào Con Đường" hay "Hoà nhập vào dòng chảy" cần có một quyết tâm gồm hai mặt: Một mặt hướng lòng Từ Bi của mình ra bên ngoài nhằm mang lại cho mình một sức mạnh cần thiết, một mặt hướng vào bên trong để phát huy Trí Tuệ hầu giúp mình biến cải lấy chính mình.
Tất cả những gì ở bên kia bức tường đều là những thứ tưởng tượng mang lại sự sợ hãi, lo âu hoặc là những hy vọng hão huyền. Dù đấy là hy vọng hay sợ hãi thì chúng cũng đều khuấy động tâm thức mình và đày đọa mình mà thôi. Tu tập Phật Giáo là cách xô sập bức tường ngăn cách đó để nhìn thấy phía bên kia chỉ là một sự trống không mênh mông. Và cũng thật lạ, nếu nhìn thật kỹ thì chúng ta cũng lại sẽ nhận thấy sự trống không ấy đồng thời cũng ở phía bên này bức tường, bởi vì nó đang nằm bên trong tâm thức của mỗi con người chúng ta. Bức tường chẳng qua cũng chỉ là một thứ ảo giác, tạo ra bởi vô minh nhằm ngăn cách chúng ta với hiện thực.
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (Karma) đều tạo ra một hậu quả. Dù suy nghĩ bất cứ điều gì, làm bất cứ việc gì hay thốt ra bất cứ một lời nào, thì các tư duy, hành động và ngôn từ ấy sẽ đều lưu lại dấu vết của chúng trong từng "Đơn vị" của dòng tri thức của chính mình. Mỗi "Đơn vị" hiện ra và mang theo những vết hằn của nghiệp đã có từ trước, các vết hằn này sẽ tương tác với các vết hằn khác của nghiệp đang xảy ra để tạo ra những vết hằn mới. Những vết hằn mới lại sẽ trở thành những nguyên nhân mới để làm phát sinh ra một "Đơn vị" mới. Do đó mỗi "Đơn vị" cũng có thể xem là một "Khoảnh khắc" biểu trưng cho một sự sống trọn vẹn, một sự sống hiện ra thật đầy đủ trong "Khoảnh khắc" ấy và cũng cùng biến mất đi với cái chết của khoảnh khắc ấy. Nói một cách khác là sự sống ấy tuy ngắn ngủi thế nhưng vẫn mang một sự sinh và một cái chết, cũng nhận lãnh nghiệp từ trước, cũng tạo ra nghiệp mới và cũng chuyển tất cả cho một sự sống khác sinh ra trong một "Khoảnh khắc" khác.
Tóm lại nếu nhìn thật gần vào sự sống của chính mình qua tâm thức của chính mình thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy rằng chúng ta đang sống với từng "Khoảnh khắc" thật ngắn của tư duy. Mỗi tư duy sinh ra, sống và tan biến đi sau đó. Khi ngồi yên để theo dõi dòng tư duy thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy dễ dàng là các tư duy và xúc cảm của mình hiện ra và biến đi liên tục. Mỗi tư duy khi hiển hiện sẽ luôn luôn tạo ra với nó một "Cái tôi" hay một "Cái của tôi" (Còn gọi là "Cái ngã"). Thật ra chỉ có những người tu tập thành thạo mới chận đứng được sự tạo dựng ấy của "Cái tôi" hay cái "Của tôi" trong từng khoảnh khắc một mà thôi. Đối với những người bình dị như chúng ta thì mỗi khi một "Khoảnh khắc" hiện ra thì "Cái tôi" cũng theo đó mà hiện ra với nó, khi khoảnh khắc ấy chấm dứt hay "Chết đi" thì khi đó "Cái tôi" do nó tạo dựng ra cũng sẽ chết theo với nó. Nói một cách khác là "Cái tôi" của chúng ta sống liên tục và cũng chết liên tục với từng "Khoảnh khắc" một. Đấy chính là sự vận hành của quá trình vi mô mà chúng ta đôi khi không nhận thấy hay không chú ý đến. Chúng ta chỉ quan tâm đến sự sống của chúng ta xảy ra theo quá trình vĩ mô xuyên qua "Một tổng thể đa dạng và phức tạp của cái tôi", tương tự như những hình ảnh linh động của một cuốn phim trình chiếu trên màn ảnh. Trong khi đó chúng ta không nhận thấy được hình ảnh của những "Cái tôi" dưới hình thức các đơn vị thuộc quá trình vi mô luân phiên hiển hiện và mất đi, tương tự như những tấm hình rời rạc thay nhau xuất hiện phía sau ống kính của máy chiếu phim.
Tất cả những cái tôi ấy dù dưới hình thức một "Tổng thể" thuộc quá trình vĩ mô hay dưới hình thức những "Đơn vị" thuộc quá trình vi mô đều không mang một thực thể nào cả. Nếu hiểu được như thế thì chúng ta cũng sẽ không còn khiếp sợ cái chết nữa và sẵn sàng "Buông bỏ thân xác và tâm thức" mình không một chút hối tiếc để quay trở về với bản chất đích thật của chính mình. Cái bản chất đích thật ấy là gì? Chính là dòng tri thức nguyên sinh sau khi đã loại bỏ được tất cả các dấu vết của nghiệp. Mỗi đơn vị hiểu biết trên dòng tri thức đó sẽ trở thành Trí Tuệ của Phật. Đạo Nguyên có viết như sau:
Tìm về với Phật có nghĩa là tìm về với mình,
Hầu giúp mình tìm hiểu chính mình và để quên chính mình.
Quên chính mình là cách giúp cho ánh sáng của vũ trụ tràn ngập tâm hồn mình,
Để cho tâm hồn tràn ngập bởi ánh sáng của vũ trụ,
chính là cách buông bỏ thân xác và tâm thức này của mình.
(Trích dẫn từ quyển Le Grand Livre de la Sagesse, tác giả Evelyne Brière, Le cherche Midi Éditeur, 2000, tr. 29)
Tìm về với mình có nghĩa là tìm về với dòng tri thức nguyên sinh và tinh khiết của mình. Tìm hiểu chính mình có nghĩa là nhận thấy sự hiện hữu của mình không mang một thực thể nào cả. Quên chính mình có nghĩa là không thừa nhận sự chỉ huy của "Cái tôi" đang chi phối mình. Để cho tâm hồn tràn ngập bởi ánh sáng của vũ trụ có nghĩa là để cho trí tuệ xâm chiếm tâm hồn mình.
Thiết nghĩ những gì được trình bày cho đến đây vẫn còn mang ít nhiều tính cách lý thuyết. Vậy chúng ta cũng thử tìm hiểu xem các tông phái và học phái khuyên chúng ta phải hành xử như thế nào trong những khoảnh khắc cuối cùng khi cái chết xảy đến với mình. Thật lạ là các tông phái và học phái tuy chủ trương các phép tu tập khác nhau thế nhưng tất cả lại đều khuyên chúng ta phải giữ một thái giống nhau để ứng phó với cái chết trong những giây phút cuối cùng. Nguyên tắc chung của thái độ này là phải tạo ra cho mình một thể dạng tâm thức gần nhất với sự Giác Ngộ, đấy là một thể dạng tâm thức trong sáng, an bình và ngập tràn từ bi. Thể dạng đó sẽ in đậm dấu vết trên những đơn vị cuối cùng của dòng tri thức thuộc sự sống hiện tại này. Những dấu vết ấy sẽ hướng sự hình thành của sự sống kế tiếp trong một bối cảnh thuận lợi và tốt đẹp nhất. Có năm phương cách giúp khơi động thể dạng tâm thức ấy trong lúc hấp hối:
1- Phát lộ thật sâu xa sự tha thứ đối với tất cả những ai đã từng gây ra đau buồn cho mình. Tha thứ là một cách mang lại cho mình niềm an vui. Hận thù, ác cảm, oán hờn là những hình thức bám víu vào thế giới này, không nên chạy theo chúng để tiếp tục phải bị vướng mắc trong vòng luân hồi. Tha thứ là cách buông xả tốt nhất giúp chúng ta hóa giải mọi oán hận đè nén trong lòng mình.
2- Phát lộ sự hối hận một cách thành thật. Hối hận là một cách tinh khiết hóa tâm thức nhằm hóa giải những hậu quả không tốt của nghiệp mà mình đã tạo ra. Khoảnh khắc cuối cùng cũng là điểm hội tụ và kết thúc của tất cả các nghiệp do chính mình đã tạo ra trong suốt cuộc sống này. Vì thế đấy cũng là thời điểm tốt nhất để khơi động sự hối hận trong lòng mình về những gì mà mình đã gây ra tổn thương cho người khác và cho tất cả chúng sinh, dù là vô tình hay cố ý. Hối hận là một cách tự tha thứ cho mình và tinh khiết hóa dòng tri thức của mình.
3- Phát lộ lòng từ bi vô biên đối với tất cả chúng sinh thiếu may mắn hơn mình. Vì không hiểu được Đạo Pháp là gì nên các chúng sinh ấy phải chết trong lo âu và sợ hãi. Vậy hãy mở rộng con tim của mình để đón nhận về phần mình tất cả những đau thương có thể đang đày đọa các chúng sinh ấy và cầu mong cho tất cả sẽ tìm thấy một cái chết thật thanh thản và an bình như chính cái chết của mình đang xảy ra trong lúc này. Những xót thương đó sẽ chuyển thành một sức mạnh vô biên in đậm trên dòng tri thức của mình giúp mình tái sinh trong những bối cảnh thuận lợi và tốt đẹp nhất trong tương lai.
4- Phát lộ lòng yêu quý vô biên đối với Đức Phật. Hãy nhìn vào Đức Phật như một tấm gương để noi theo. Ngài chính là Vị Thầy đích thật và cuối cùng của đời mình. Đức Phật thuyết giảng suốt bốn mươi lăm năm cho đến ngày kiệt lực và phải nằm xuống đất giữa hai gốc cây sa-la trong một khu rừng. Sau khi dặn dò các đệ tử lần cuối thì Ngài quay trở về với chính mình, với tất cả sự trong sáng, đơn sơ và giản dị của tám mươi năm trong kiếp nhân sinh cuối cùng của chính Ngài. Đấy là những gì mà chúng ta phải bắt chước Vị Thầy của mình. Chúng ta nên nghĩ rằng trong kiếp sống vừa qua mình cũng đã làm những gì cần phải làm, cho mình và cho cả người khác, và trong khoảnh khắc cuối cùng này trước khi tâm thức tan biến, chúng ta không còn gì để phải ra sức nữa, không còn gì để hối tiếc hay yêu thương nữa, không còn gì để chờ đợi hay để phải quay nhìn trở lại cả.
5- Phát lộ ước vọng đạt được sự giải thoát tối thượng. Hãy hướng tâm thức mình vào một bầu không gian vô biên, vắng lặng và trống không biểu trưng cho một thể dạng Giác Ngộ. Trong bầu không gian mênh mông đó chẳng còn lại gì cả: Của cải chỉ là phù du và thật ra thì cũng chẳng phải là của mình, hình ảnh của những người thân yêu chung quanh cũng mờ nhạt đi và mất hút trong bầu không gian đang tỏa rộng đó. Những biến cố dồn dập của một kiếp người dù có hiện lên trở lại với mình thì đấy cũng chẳng khác gì như những ảo giác chập chờn trong một giấc mơ vào đêm hôm qua. "Cái tôi" sẽ trở nên thật nhỏ bé và vô nghĩa, nó sẽ mờ dần và tan biến đi trong bầu không gian trống không và vô tận đó.
Sau hết cũng xin mạn phép lập lại dưới đây câu phát biểu của Đức Phật đã được trích dẫn dưới tựa đề của bài viết:
"Bên trong thân xác bằng một sải tay mang đầy giác cảm này, Như Lai xem đấy cũng chẳng khác gì như toàn thế giới, sự hình thành của thế giới và cả con đường đưa đến sự chấm dứt của thế giới"
(Kinh Tăng Nhất A Hàm, Anguttara Nikaya, ấn bản Colombo, 1929, tr. 218).
Walpola Rahula trong một quyển sách nhỏ nhưng rất nổi tiếng của ông là "L'Enseignement du Bouddha d'après les textes les plus anciens" (Giáo huấn của Đức Phật dựa theo các kinh sách xưa nhất, Ed. du Seuil, 1978, tr. 66-67) cũng có trích dẫn câu này và theo ông thì có nghĩa là Bốn Sự Thật Cao Quý đều nằm bên trong năm thành phần cấu hợp (Ngũ uẩn) tạo ra thân xác chúng ta. Nếu thay các chữ thế giới (Loka) bằng chữ khổ đau (Dukkha) thì sẽ hiểu được ngay ý của câu này. Thật thế thân xác cấu hợp của chúng ta cũng chỉ là khổ đau, nguyên nhân sinh ra khổ đau và [May mắn thay] cũng chính là một phương tiện giúp chúng ta loại bỏ khổ đau.
Thế nhưng chúng ta cũng có thể thay chữ loka bằng chữ samsara và câu trên đây sẽ trở thành như sau:
"Bên trong thân xác bằng một sải tay mang đầy giác cảm này, Như Lai xem đấy cũng chẳng khác gì như cả một thế giới luân hồi, sự hình thành của thế giới luân hồi và con đường đưa đến sự chấm dứt của thế giới ấy"
Thân xác gồm năm thứ cấu hợp của chúng ta là cả một thế giới cất chứa toàn là khổ đau, một thế giới khổ đau đang xoay vần bất tận, thế nhưng thân xác lại cũng là một phương tiện giúp chúng ta thoát ra khỏi thế giới ấy. Vậy chúng ta hãy hân hoan trả lại thân xác này cho thế giới ấy.
Hoang Phong